Lý luận về pháp luật thương mại dịch vụ

[Luận văn 2011] Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý – Những vấn đề lý luận và thực tiễn / ThS. Nguyễn Như Chính

THÔNG TIN LUẬN VĂN

  • Trường: Đại học Luật Hà Nội
  • Tác giả: ThS. Nguyễn Như Chính
  • Định dạng: PDF
  • Số trang: 88 trang
  • Năm: 2011

Theo quan điểm lí luận pháp luật truyền thống ở Việt Nam, pháp luật thương mại dịch vụ có thể được hiểu theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp.

Hình minh hoạ [Nguồn: donga]

Khái niệm

Theo quan điểm lí luận pháp luật truyền thống ở Việt Nam, pháp luật thương mại dịch vụ có thể được hiểu theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp.

- Theo nghĩa rộng, pháp luật thương mại dịch vụ được hiểu là hệ thống các qui tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành nên các nhà cung cấp dịch vụ và các quan hệ phát sinh trong quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ.

Đặc điểm

Các quan hệ này phát sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, cung cấp dịch vụ và liên quan đến nhiều loại chủ thể khác nhau. Do đối tượng điều chỉnh rộng như vậy nên cần đến nhiều qui phạm pháp luật khác nhau và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để điều chỉnh.

Theo quan niệm truyền thống, pháp luật về thương mại dịch vụ bao gồm các qui phạm, chế định thuộc nhiều ngành luật khác nhau [như Luật Dân sự, Luật Hành chính, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Môi trường…]

- Theo nghĩa hẹp, pháp luật về thương mại dịch vụ là các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cung ứng dịch vụ.

Đặc điểm

Theo nghĩa này thì đối tượng điều chỉnh của pháp luật về thương mại dịch vụ chỉ bao gồm các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh trong quá trình cung ứng dịch vụ thương mại [chủ yếu là các thương nhân]. 

Pháp luật về thương mại dịch vụ chỉ bao gồm các qui phạm, chế định của Luật Dân sự và Luật Thương mại với các phương pháp điều chỉnh của luật tư.

Lưu ý

Các lưu ý là việc phân biệt nội hàm của khái niệm pháp luật về thương mại dịch vụ theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp chỉ có tính chất tương đối.

Trên thực tế, hệ thống pháp luật là một thể thống nhất, các qui phạm, các chế định có mối liên hệ mật thiết với nhau không thể tách rời. 

Mọi qui định của hệ thống pháp luật đều có thể được vận dụng để xử lí những vấn đề phát sinh trong thực tiễn một cách hiệu quả nhất.

[Tài liệu tham khảo: Giáo trình Luật Thương mại, TS. Bùi Ngọc Cường, NXB Giáo dục]

Diệu Nhi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮTAFTAKhu vực Mậu dịch Tự do ASEANAPECDiễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình DươngASEANHiệp hội các Quốc gia Đơng Nam ÁASEMDiễn đàn hợp tác Á -Â uBTAHiệp định thương mại Việt Nam - Hoa KỳLLS 2006Luật Luật sư 2006LCC 2006Luật Công chứng 2006LTTTM 2010Luật Trọng tài Thương mại 2010WTOTổ chức thương mại thế giới MỤC LỤC1LỜI MỞ ĐẦUNHỮNG VẤN ĐẺ LÝ LUẬN CHUNG VÈ DỊCH v ụTHƯƠNG MẠI PHÁP LÝ5Lý luânchungo về thươngo maidichvu••••5Khái niệm dịch vụ5Khái niệm thương mại dịch vụ9JLý luận chung về dịch vụ thương mại pháp lý và phápluật về dịch vụ thương mại pháp lý12Khái niệm dịch vụ thương mại pháp lý12Phân loại dịch vụ thương mại pháp lý15Đặc điểm của dịch vụ thương mại pháp lý22Quá trình hình thành phát triển pháp luật dịch vụ thương mại28pháp lý ở Việt NamNHỮNG NỘI DUNG C ơ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VÈDỊCH VỤ THƯƠNG MẠI PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM33Quy định về chủ thể cung cấp dịch vụ thương mại pháp lý33Điều kiện hành nghề33Hình thức tổ chức kinh doanh dịch vụ thương mại pháp lý41Nội dung cụ thể các dịch vụ thương mại pháp lỷ47Dịch vụ tư vấn pháp luật47Dịch vụ tranh tụng49Dịch vụ đại diện ngồi tịa án52Dịch vụ trọng tài giải quyết tranh chấp thương mại53Dịch vụ công chứng, thừa phát lại54Hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại pháp lý57••••Cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụthương mại pháp lý và các quy định về tổ chức luật sưnước ngoài hoạt động ở Việt Nam58Quy định về hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nướcngoài, của luật sư nước ngoài tại Việt Nam.60 2.4.2Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ thương mại pháp lý củaViệt Nam trong khuôn khổ WTOChương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁPLUẬT ĐIỀU CHỈNH DỊCH v ụ THƯƠNG MẠI PHÁPLÝ Ở VIỆT NAM3.1Quan điểm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh dịch vụthương mại pháp lý ở Việt Nam3.1.1Phải có quan điểm nhất quán coi dịch vụ pháp lý là dịch vụthương mại3.1.2Việc hoàn thiện pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lýphải đáp ứng nhu cầu hội nhập, phù hợp với các cam kết mởcửa thị trường3.1.3Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý phải phùhợp với đặc điểm phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa pháp lýcủa Việt Nam3.2Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quảáp dụng pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý3.2.1Giải pháp sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luậtvề dịch vụ thương mại pháp lý3.2.2Một số giải pháp về hoàn thiện thiết chế nhằm đảm bảo hiệuquả thực hiện pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lýKẾT LUẬNDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1LỜ I M Ở ĐẦU1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tàiSự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO] đánh dấu mộtbước thay đổi mạnh mẽ trong hệ thống thương mại thế giới, khi hệ thống cáchiệp định, quy định mang tính đa phương đã trở thành một nền tảng chungcho quan hệ thương mại giữa các nước trên thế giới. Với những thành côngtrong việc ký kết hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ,gia nhập và hoạt động tại các diễn đàn khu vực như ASEAN, AFTA, APEC,ASEM, và đặc biệt là WTO, Việt Nam đang hòa nhập sâu rộng vào nền kinhtế khu vực và thế giới. Quá trình quốc tế hóa nền kinh tế đã thúc đẩy các hoạtđộng thương mại quốc tế của dịch vụ pháp lý phát triển hơn. Các luật sư, nhàtư vấn pháp luật ngày càng đối mặt nhiều hơn với các giao dịch liên quan tớikhách hàng của nhiều quốc gia và các yêu cầu tư vấn liên quan đến hệ thốngpháp luật của nhiều bên. Các tranh chấp trong kinh doanh, các quan hệ về đầutư sẽ nhiều hơn, phức tạp hom, những hoạt động này lúc đó khơng thể khơngcần đến sự hỗ trợ, tư vấn của các luật sư, nhà tư vấn pháp luật.Phạm vi các dịch vụ mà luật sư cung cấp đang ngày càng đa dạng,phong phú, trong khi đó, ở Việt Nam, chỉ từ khi Pháp lệnh Luật sư 2001 rađời, hoạt động của luật sư trong đó có cung cấp các dịch vụ pháp lý mới đượcpháp điển hóa, phù hợp hơn với điều kiện kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, Pháplệnh Luật sư vẫn còn nhiều điểm bất cập, hạn chế như công ty Luật họp danhchỉ được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tư vấn pháp luật và dịch vụpháp lý khác mà không được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng;và điểm bất cập lớn là chưa quy định rõ ràng khái niệm “dịch vụ pháp lý”, BộTư pháp và Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa thống nhất được thế nào là hànhnghề dịch vụ pháp lý? Luật Luật sự 2006 được ban hành, góp phần hoàn thiệnhệ thống pháp luật, thống nhất điều chỉnh dịch vụ pháp lý, điều chỉnh toàndiện hơn các hoạt động liên quan đến luật sư, nghề luật nói chung và các dịchvụ pháp lý nói riêng. 2Tuy nhiên, “tính thương mại” của nghề luật sư, đặc biệt là trong việccung cấp các dịch vụ pháp lý; các quy định của pháp luật về “mua và bán”dịch vụ pháp lý còn nhiều quan niệm khác nhau, đặc biệt là khi Việt Nam đãlà thành viên của WTO với những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ pháplý. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý những vấn đề lý luận và thực tiễn ” với mong muốn có thể nghiên cứu và trìnhbày ý tưởng của mình về các vấn đề trên.2. Tình hình nghiên cứu đề tàiỞ phạm vi thương mại dịch vụ nói chung, đã có nhiều đề tài nghiên cứu,nhất là khi Việt Nam đã là thành viên WTO. Một số luận văn, đề tài, bài viếtnghiên cứu tiêu biểu như: Luận văn thạc sỹ Luật học “Nghiên cứu chế địnhthương mại dịch vụ của tổ chức thương mại thế giới và các giải pháp hoànthiện pháp luật thương mại Việt Nam từ yêu cầu của việc Việt Nam gia nhậpWTO ” - Nguyễn Văn Cảnh năm 2004; Đề tài nghiên cứu "Cơ sở khoa học củaviệc xây dựng nội dung giảng dạy pháp luật về thương mại dịch vụ bậc cửnhăn ở Trường Đại học Luật Hà Nội “ - tập thể giảng viên khoa Pháp luật Kinhtế Đại học Luật Hà Nội - chủ nhiệm đề tài TS. Đồng Ngọc Ba, năm 2007; Mộtsố bài viết trong các tạp chí, như bài viết “Tổng quan pháp luật Việt Nam vềthương mại dịch vụ và cam kết mở cửa thị trường dịch vụ khi gia nhập WTO ” TS. Bùi Ngọc Cường ừong tạp chí Luật học số 06/2007, bài viết ‘ỀVỉệt Nam gianhập WTO và vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam ” - TS. HoàngPhước Hiệp trong tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 01/2007...Đối với dịch vụ thương mại pháp lý nói riêng, hiện nay cũng chỉ có mộtsố bài viết như ”Dịch vụ pháp ỉỷ và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường” TS. Nguyễn Văn Tuân trong tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề phápluật về Doanh nghiệp 2005; bài viết “Từng bước xây dựng quan niệm về dịchvụ pháp lỷ trong hành nghề luật sư một số vẩn đề lý luận và thực tiễn” - TS.Phan Trung Hoài trong tạp chí Nhà nước và Pháp Luật số 02/2007.Các bài viết trên đã đề cập tới các vấn đề chung nhất của dịch vụ pháplý, qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu, tác giả thấy rằng việc làm sáng tỏ đề tài“Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý - những vẩn đề lý ỉuận và thực 5CHƯƠNG 1NHỮNG VẤN ĐÊ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH v ụTHƯƠNG MẠIPHÁP LÝ•1.1.LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH v ụ1.1.1. Khái niêm dich vu•••Trong vịng hai, ba thập kỷ vừa qua, các nhà kinh tế và các nhà hoạchđịnh chính sách ở các quốc gia đã ngày càng chú ý nhiều hơn tới sự đóng gópcủa các ngành dịch vụ đến quá trình phát triển kinh tế. Mặc dù khác nhau vềcơ cấu sản xuất và việc làm, dù là phát triển hay đang phát triển, các nền kinhtế hiện đại đều có một đặc điểm chung là tỷ trọng của dịch vụ ngày càng tăng,đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế. Việc cung cấp đầy đủ các dịch vụngày càng được thừa nhận là một trong những điều kiện tiên quyết cho quátrình phát triển, thay vì là kết quả của q trình này. Ví dụ như các dịch vụphân phối, hỗ trợ thương mại, bảo hiểm, tiếp thị và các dịch vụ kinh doanhkhác hỗ trợ cho sự phát triển lành mạnh của các hoạt động cơng nghiệp [13].Mặc dù với đóng góp quan trọng như vậy, hiện nay vẫn chưa có mộtkhái niệm định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Ban đầu, một số khái niệm chorằng dịch vụ là một sản phẩm vô hình, cịn hàng hố là sản phầm hữu hình.Theo C.Mác, “dịch vụ là một hoạt động mang lại lợi ích và lợi ích đó có thể làhữu hình hay vơ hình”. Điều này phù hợp với hầu hết các loại dịch vụ, tuynhiên, cịn nhiều người nghi vấn là khó có thể giải thích một cách cặn kẽ, thấuđáo nếu chỉ căn cứ vào đặc tính vơ hình hay hữu hình của hàng hố và dịchVào thập niên 30 của thế kỷ XX, Allan Fisher và Colin Clark là nhữngngười đầu tiên đề xuất việc chia nền kinh tế thành ba ngành [17]: Ngành thứnhất - nông nghiệp, lâm nghiệp và thicỷ sản', Ngành thứ hai - công nghiệp; vàNgành thứ ba - dịch vụ. Clark định nghĩa dịch vụ theo nghĩa rất rộng là “cácidạng hoạt động kỉnh tế không được liệt kê vào ngành thứ nhất và thứ h a ĩ\Định nghĩa này đã phản ánh việc từ lâu ngành thứ ba, tức là ngành dịch vụ, 6được coi là phần dôi ra của nền kinh tế, trong khi ngành sản xuất chế tạo đượchiểu như nền tảng của tồn bộ nền kinh tế nói chung.Cùng với việc vai trò của dịch vụ ngày càng tăng, các học giả đã chú ýnhiều hơn tới việc nghiên cứu về dịch vụ. Quan điểm khác lại cho rằng dịchvụ là sản phẩm mà tại đó hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ và tiêu dùngxảy ra đồng thời, không thể lưu trữ được. Hoặc, một khái niệm được coi làchính xác trong nhiều năm trước đây, được đưa ra trong q trình thống kêdịch vụ quốc tế, đó là dịch vụ không thể dịch chuyển mà phải tiêu dùng ngaytại nơi sản xuất dịch vụ. Nhưng với sự phát triển của kỹ thuật mới và côngnghệ thông tin, truyền thơng hiện đại thì các cách giải thích trên khơng cịnsức thuyết phục như ban đầu.Định nghĩa về dịch vụ do T.p Hill, nhà kinh tế học người Anh đưa ranăm 1977 có ảnh hưởng khá lớn tới các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này. TheoHill, “dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hay hànghoá thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thểkỉnh tế khác với sự đồng ý trước của người hay chủ thể kỉnh tế ban đầu”.Điểm mới đáng quan tâm trong giải thích này là ở chỗ nó xuất phát từ nộidung kinh tế của hoạt động dịch vụ là chủ yếu chử khơng căn cứ vào hình tháivật lý hay đặc tính thời gian và khơng gian vốn có của hoạt động dịch vụ đểgiải thích [11]. Ngoài ra, định nghĩa trên cũng nhấn mạnh tới sự khác biệtgiữa sản xuất dịch vụ và sản phẩm dịch vụ. Sản phẩm của một hoạt động dịchvụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hoặc hàng hố bị tácđộng, trong khi q trình sản xuất dịch vụ là hoạt động tác động tới ngườihoặc hàng hoá thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó.Một số tổ chức quốc tế như Liên Hiệp quốc, Tổ chức Thương mại thếgiới, Quỹ tiền tệ quốc tế cho đến nay vẫn chưa đưa ra được cách hiểu nhấtquán về khái niệm dịch vụ. Ví dụ như Hiệp định chung về thương mại dịch vụ[GATS] cũng không nêu lên một khái niệm cụ thể về dịch vụ. Theo Điều I,khoản 3b của GATS viết rằng: “Dịch vụ ” bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trongbất kỳ lĩnh vực nào, ngoại trừ dịch vụ được cung cấp trong thi hành thẩm. quyền của Chính phủ. Sau đó khoản 3c cho biết “Dịch vụ được cung cấp 7trong thi hành thẩm quyền của Chính phủ ” là bất cứ dịch vụ nào được cungcấp không trên cơ sở thương mại, cũng như không trên cơ sở cạnh tranh vớimột hoặc nhiều người cung cấp dịch vụ. Như vậy, từ quy định của GATS tachỉ biết được phạm vi dịch vụ điều chỉnh bởi hiệp định này chứ khơng hề cóđược một khái niệm thực sự về dịch vụ, và quan niệm về dịch vụ trong hiệpđịnh GATS là các dịch vụ mang tỉnh thương mại.Và để tạo cách hiểu thống nhất cho các quốc gia, lãnh thổ tham gia vàocác hiệp định đa phương, các tổ chức quốc tế đã tiếp cận khái niệm dịch vụbằng cách xác định phạm vi những lĩnh vực được coi là dịch vụ, sau đó liệt kêdanh mục phân loại các ngành địch vụ.Ở Việt Nam cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau về dịch vụ. Theotừ điển Bách Khoa Toàn thư Việt Nam, dịch vụ là những hoạt động phục vụnhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Và dựa vào nhucầu và tuỳ theo sự phân cơng lao động mà có nhiều loại dịch vụ: Dịch vụphục vụ sản xuất, kinh doanh; Dịch vụ phục vụ sinh hoạt công cộng; Dịch vụcá nhân dưới hình thức những dịch vụ gia đình; những dịch vụ tinh thần dựatrên những nghiệp vụ đòi hỏi khả năng đặc biệt [hoạt động nghiên cửu, môigiới, quảng cáo]; những dịch vụ liên quan đến đời sống và sinh hoạt cơngcộng [sức khoẻ, giáo dục, giải trí]; những dịch vụ về chỗ ở, w..[23] Cách giảithích này cịn chung chung và khơng rõ bản chất của dịch vụ. Cịn quan niệmkhác cho rằng dịch vụ là các lao động của con người được kết tinh trong giátrị của kết quả hay trong giá trị của các loại sản phẩm vô hình và khơng thểnắm bắt được [9, tr. 14]Tuy nhiên, chưa có định nghĩa nào thật chính xác về dịch vụ, để phânbiệt dịch vụ với hàng hóa, có thể dựa vào những đặc trưng của dịch vụ so vớihàng hóa [mang tính tương đối].Thứ nhất, dịch vụ cổ tỉnh chất vơ hình. Điều này thể hiện ở chỗ dịchvụ là những thứ mà khi đem bán không thể roi vào chân bạn được [24].Người ta khơng thể nhìn thấy, thử mùi vị, nghe hay ngửi chúng trước khi tiêu•dùng. Khách hàng không thể biết chất lượng phục vụ của một khách sạn nếukhơng đến đó thử đặt phịng hay học viên không thể biết được chất lượng 8giảng dạy nếu không trực tiếp tham dự lớp học... Người tiêu dùng chỉ có thểtìm kiếm các dấu hiệu chứng tỏ chất lượng dịch vụ cung ứng đó như: thươnghiệu, danh tiếng người cung ứng, biểu tượng, giá cả hay qua sự mơ tả về dịchvụ đó của các khách hàng đã sử dụng dịch vụ hoặc thông qua thơng tin quảngcáo. Chính vì vậy, việc lượng hố, thống kê, đánh giá chất lượng và quy môcung cấp dịch vụ của một công ty, nếu xét ở tầm vi mô và của một quốc gia,nếu xét ở tầm vĩ mơ, trở nên khó khăn hơn so với hàng hố hữu hình rấtnhiều. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ, có một số loại dịch vụ là hữuhình, ví dụ báo cáo của nhà tư vấn được ghi trên đĩa mềm. Trong khi đó cómột số loại hàng hố lại có tính vơ hình, ví dụ quyền sở hữu trí tuệ.Thứ hai, dịch vụ cố tính khơng đồng nhất và khỏ xác định chất lượng.Chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào người cung cấp chúng cịn việc khơng đồngnhất của chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào hoản cảnh tạo ra dịch vụ như thờigian, địa điểm mặc dù cùng là một người cung cấp. Ví dụ chất lượng của mộtca phẫu thuật thẩm mỹ có thể thành cơng với khách hàng này nhưng khôngthành công với một khách hàng khác bởi mức độ chất lượng của nó phụ thuộctay nghề của bác sỹ thực hiện, các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ và còn cả bởicác yếu tố tâm lý của họ, điều tương tự cũng có thể diễn ra đối với chất lượngđào tạo của một lớp học.Thứ ba, dịch vụ có tỉnh khơng thể tách rời và khơng ỉưu trữ được. Qtrình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Một dịch vụ được tiêudùng khi nó đang được tạo ra và khi ngừng q trình sản xuất có nghĩa là việctiêu dùng đó cũng ngừng lại. Khác với sản xuất vật chất, sản xuất dịch vụkhông thể sản xuất sẵn rồi lưu vào kho chờ tiêu thụ. Khi tính tốn sản lượngcủa nền kinh tế, Ban phân tích kinh tế Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng đã nêu“các ngành dịch vụ là những ngành mà sản phẩm của nó khơng thể được lưutrữ và được tiêu dùng tại thời điểm và nơi diễn ra hoạt động mua bán” [18, ứ.762].Thứ tư, là cách thức bảo hộ các ngành dịch vụ nội địa.Các ngành cơng nghiệp sản xuất hàng hố nói chung thường được bảohộ bằng cách đánh thuế hoặc áp dụng các biện pháp phi thuế quan tại cửa 9khẩu. Còn đối với các ngành dịch vụ, do bản chất vơ hình của dịch vụ và vìnhiều giao dịch dịch vụ không cần sự dịch chuyển qua biên giới, nên khôngthể bảo hộ các ngành dịch vụ bằng các biện pháp áp dụng tại cửa khẩu. Cácngành công nghiêp dịch vụ chủ yếu được bảo hộ bằng pháp luật quốc gia vềđầu tư trực tiếp nước ngồi. Ví dụ, cấm các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài[ngân hàng, công ty bảo hiểm] đầu tư vào hoặc thành lập chi nhánh để cungcấp dịch vụ; hoặc không áp dụng nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc, nguyên tắcđãi ngộ quốc gia.Tuy nhiên, Hầu như trong mọi hoạt động cung ứng dịch vụ đều có sựxuất hiện của các sản phẩm hữu hình như là các yếu tố phụ trợ. Cũng nhưvậy, khi tiến hành mua bán trao đổi bất kỳ hàng hố hữu hình nào cũng đềucần đến các dịch vụ hỗ trợ. Người ta thấy rằng sự liên kết và phụ thuộc lẫnnhau giữa các hoạt động kinh tế cũng như tính phức tạp của chúng làm choviệc phân biệt giữa các ngành kinh tế trờ nên thực sự khó khăn. Điều nàycũng giải thích rằng sự phân biệt giữa dịch vụ và hàng hóa chỉ mang tính chấttương đối. Dịch vụ và hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quá trìnhhình thành và phát triển dịch vụ gắn liền với sự phát triển của phân công laođộng xã hội và của sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hố càng phát triển vàphân cơng lao động diễn ra ngày càng sâu rộng thì các ngành dịch vụ cũng sẽđược hình thành và phát triển nhiều hơn, đa dạng hơn. Nếu như trước đây,nói đến một nền kinh tế, người ta chỉ nói đến hai lũứi vực then chốt là nơngnghiệp và cơng nghiệp thì ngày nay, lĩnh vực được quan tâm đến nhiều cũngnhư chiếm tỷ trọng khá cao trong GDP của các quốc gia lại là lĩnh vực dịchvụ - ngành kinh tế thứ ba của nền kinh tế.1.1.2. Khái niệm thương mại dịch vụDựa vào đối tượng và lĩnh vực phát sinh của hoạt động thương mại, cáchoạt động thương mại được chia thành các nhóm cơ bản là: thương mại hànghóa, thương mại dịch vụ, thương mại trong lĩnh vực đầu tư và thương mạitrong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.Thương mại dịch vụ là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại tronglĩnh vực dịch vụ, hay nói chính xác hơn, là khái niệm được dùng để nhấn 11mại. Các luật chuyên ngành đề cập đến những lĩnh vực dịch vụ riêng biệt,Luật Thương mại 1997 - Luật Thương mại đầu tiên của Việt Nam, đã giảithích về dịch vụ thương mại [Khoản 4 Điều 5] gồm những dịch vụ gắn vớiviệc mua bán hàng hóa và liệt kê 13 loại hình được coi là dịch vụ thương mại[Điều 45]. Luật Thương mại 2005 ra đời đã dành một chương riêng quy địnhvề dịch vụ thương mại, bản chất của giao dịch, cung ứng dịch vụ cũng có tínhchất của giao dịch mua bán [mua bán dịch vụ].Tuy nhiên, với cách hiểu, cách quy định của pháp luật chưa rõ ràngkhiến cho khía cạnh kinh doanh của dịch vụ tức là mua bán, trao đổi dịch vụnhằm tìm kiếm lợi nhuận - khía cạnh thương mại của dịch vụ của một số lĩnhvực dịch vụ ít được đề cập. Việc suy diễn cho rằng dịch vụ này là dịch vụthương mại hay không phải thương mại thường xuyên xảy ra, gây khó khăncho việc thiết kế các khn khổ pháp lý cũng như điều chỉnh bằng pháp luậtđối với các dịch vụ đó. Đây cũng là biểu hiện cho thấy quan niệm về dịch vụthương mại, thương mại dịch vụ ở Việt Nam cịn có khoảng cách so với quanniệm chung của thế giới. Điều này xuất phát từ điều kiện kinh tế, xã hội củamỗi quốc gia ở từng thời kỳ khác nhau, khi nền kinh tế phát triển, đời sống xãhội ngày càng cao, càng xuất hiện nhiều ngành dịch vụ mới và dịch vụ sẽcàng ngày được thương mại hóa và trở thành một ngành kinh tế quan trọng Thương mại dịch vụ.Thực tế này ở Việt Nam cũng giống như ở các nước có nền kinh tếchuyển đổi khác, những quốc gia này phản đối quan điểm thương mại hóa cácngành dịch vụ. Các dịch vụ như y tế, giáo dục, pháp luật và thậm chí cả dịchvụ tài chính, ngân hàng được coi là một bộ phận trong chiến lược phát triểnquốc gia và chỉ được xem xét dưới góc độ an ninh quốc gia với mục tiêu là đểduy trì cơ sở hạ tầng cho các hoạt động kinh tế - thương mại khác. Với cáchquan niệm này, Chính phủ thường đứng ra tự mình đảm nhận vai trị chủ yếutrong việc cung cấp dịch vụ và do đó, dịch vụ được cung cấp dưới dạng phithương mại. Vì lẽ đó, người ta đã phân biệt các dịch vụ do Chính phủ cungcấp là phi thương mại với một số dịch vụ có thể có tính thương mại [16]. 121.2.LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH v ụ THƯƠNG MẠI PHÁP LÝ VÀPHÁP LUẬT VỀ DỊCH v ụ THƯƠNG MẠI PHÁP LÝ1.2.1. Khái niệm dịch vụ thương mại pháp lýCùng với thương mại dịch vụ, dịch vụ thương mại pháp lý là lĩnh vựcmới của thời đại ngày nay, trong khi đó, nghề luật và nghề luật sư đã có lâuđời. Để tìm hiểu khái niệm dịch vụ pháp lý chúng ta cần tìm hiểu nghề luật sưlà gì? Nghề luật là gì? và hành nghề luật sư hoặc hành nghề luật có phải làkinh doanh dịch vụ pháp lý hay không?* Luật sư và nghề luật sưCho dù lịch sử hình thành luật sư và nghề luật sư cịn nhiều tranh cãitrên thế giới, nhưng xuất phát điểm của việc hình thành luật sư và nghề luậtsư có căn ngun sâu xa từ những áp bức và bất công trong xã hội.Tương quan giữa nhà nước và người dân thực chất là các mối quan hệkhông ngang bằng. Nhà nước nắm quyền lực cai trị nên vì lợi ích tồn tại củachính mình, có xu hướng bành trướng quyền lực, thậm chí lạm dụng luật phápvà có nhiều phương tiện thuận lợi để thực hiện điều này. Trong khi đó, ngườidân thường khơng có cơng cụ nào khác ngồi sử dụng luật pháp và dựa vàopháp luật. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, khi các luật lệ ngàycàng nhiều, ngày càng tinh vi và phức tạp thì đa số người dân ngày càng ít cóđiều kiện để am hiểu và sử dụng công cụ pháp luật. Một loại hình nghềnghiệp mới đã ra đời để trợ giúp người dân giải quyết khó khăn này, đó lànghề luật sư [6], những người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật.Tuy nhiên có thể nói những người thực hành nghề luật đầu tiên xuấthiện sớm hơn trong xã hội chính là các nhà lập pháp, người định ra các quyphạm pháp luật. Sau đó là sự xuất hiện của các thẩm phán, người có nhiệm vụbảo đảm cho các quy phạm pháp luật được tôn trọng và cũng là người quyếtđịnh hình phạt đối với người vi phạm các quy phạm pháp luật.Nghề luật sư đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại.Vào thế kỷ V trước Công nguyên, trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức tồ ánhình thành và việc xét xử có sự tham gia của mọi người dân. Ngun cáohoặc bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ của mình trước Tồ hoặc nhờ 13người khác có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ trước Toà. Một loại hiệpsỹ đặc biệt xuất hiện, hiệp sỹ này khơng dùng khí giới hay cơ bắp mà sử dụngthiên tài ngôn ngữ và sự hiểu biết rộng rãi về cổ luật để đứng ra bênh vực chokẻ nghèo nàn, yếu thế... Việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oancho bạn bè hoặc người thân. Trong xã hội dần dần hình thành nhóm ngườichuyên sâu, am hiểu về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được xemxét như hoạt động nghề nghiệp. Hoạt động của các luật sư được chấp nhận vàuy tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao.Sau khi Đế quốc La Mã tan rã, châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổvới các triều đại phong kiến phân quyền cát cứ. Tổ chức Toà án và chế độ luậtsư ở các nước được xây dựng dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đíchphục vụ tôn giáo và chế độ phong kiến.Dưới chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những điềukiện khắt khe hơn và khi kinh tế thị trường phát triển ở nhiều nơi trên thế giớithì “công lý” mà các luật sư bảo vệ không chỉ liên quan đến nhân phẩm vàdanh giá của con người, hoạt động của luật sư không chỉ là đại diện trước tòamà còn là việc tư vấn những vấn đề liên quan đến giao dịch, quan hệ và tranhchấp [14, ứ. 176], liên quan tới tài sản có giá trị thương mại to lớn, có thể cânđong đo đếm và trả giá bằng tiền. Từ xuất phát điểm của những “hiệp sỹ” tựnguyện thực hiện việc bào chữa vì sự thật và công lý, nghề luật sư dần dần trởthành nghề dịch vụ, nghề làm vì tiền.Cịn nghề luật, theo cách hiểu rộng nhất là những nghề kiếm sống cóliên quan tới pháp luật. Có thể kể ra nhiều cơng việc khác cũng được gọi lànghề luật như: chấp hành viên, điều tra viên, giám định viên, chuyên viênpháp lý, cố vấn pháp lý, giáo viên dạy luật, cán bộ nghiên cứu pháp luật...trong các cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan cơng an, cơ quan hành chínhNhà nước, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, trường học, viện nghiên cứu...Cịn luật sư khơng phải là một cơng chức, không phải là một chức vụ được đềcử hoặc đề bạt, mà là một danh xưng được đặt ra theo sự phát triển của lịch sửvà được pháp lý hóa. Ở nghĩa rộng, chúng ta thấy nghề luật phong phú và đadạng, như vậy nghề luật có ngoại diên bao hàm nghề luật sư. 14* Khái niệm Dịch vụ thương mại pháp lýCho đến thời điểm hiện nay, việc đưa ra một khái niệm hồn chỉnh vềdịch vụ pháp lý chưa có được sự thống nhất từ phía các nhà nghiên cứu lậppháp ở nhiều nước trên thế giới. Có nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụpháp lý, nhưng theo một kết quả nghiên cứu, có hai xu hướng định nghĩa vềdịch vụ pháp lý: [i] Theo nhà cung cấp dịch vụ [ví dụ như Đức, ủ c, TrungQuốc...] coi luật sư là nhà cung cấp dịch vụ pháp lý độc quyền; [ii] Theo sựliệt kê các loại hình của dịch vụ pháp lý [ở Việt Nam gọi là phạm vi hànhnghề luật sư] [8, tr. 37-44]Cũng như khi đưa ra khái niệm về dịch vụ, các tổ chức quốc tế cũng sửdụng phương pháp liệt kê theo xu hướng thứ [ii] để nhận biết dịch vụ pháp lýtheo các loại hình của ngành dịch vụ này.Trong danh mục Phân loại ngành dịch vụ của WTO [19] thì —“[a] dịchvụ pháp lý” được phân thành một phân ngành của “[1] DỊCH v ụ KINHDOANH” và “[A] Dịch vụ nghề nghiệp”. Mục này tương ứng với CPC prov.số 861 trong hệ thống phân loại sản phẩm trung ương tạm thời [Provisional'Central Product Classifícation - PCPprov.] của Liên Hợp quốc năm 1991.Với việc dẫn chiếu đó, Dịch vụ pháp lý được phân tiếp thành861Dịch vụ pháp lý- 8611 Dịch vụ đại diện và tư vấn pháp lý trong các lĩnh vực luật phápkhác nhau86111 Dịch vụ đại diệnvà tư vấn pháp lý đối với luật hình sự86119 Dịch vụ tư vấn và đại diện ừong q trình xét xử tịa ánliên quan tới các lĩnh vực luật pháp khác- 8612 86120 Dịch vụ tư vấn và đại diện trong quá trình tố tụng của cáccơ quan, ủy ban tương tự tòa án- 8613 86130 Dịch vụ tập hợp và chứng nhận văn bản pháp lý- 8619 86190 Các dịch vụ thông tin và tư vấn pháp lý khậc^-/Và có thêm một tiểu mục về8668660Các dịch vụ liên quan tới tư vấn quản lý86602 Dịch vụ ừọng tài và hòa giảiJ 15Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, trước khi ban hành Pháp lệnh Tổchức luật sư 1987, việc cung cấp dịch vụ pháp lý chủ yếu được hiểu thuộctrách nhiệm của cơ quan công quyền, mặc dù các bị can, bị cáo, đương sự cóquyền nhờ người bào chữa tham gia bảo vệ quyền lợi trước Tòa án, yếu tố"dịch vụ" chỉ mang tính chất của hoạt động phục vụ mà chưa có yếu tố "thịtrường" của "cung" và "cầu". Từ khi Pháp lệnh 1987 được ban hành và hiệnnay là Luật Luật sư 2006, dịch vụ pháp lý được ghi nhận trong các điều luậtvề phạm vi hành nghề của luật sư [Điều 22 LLS 2006].Tuy nhiên, với việc nghiên cứu khía cạnh thương mại - việc mua và bándịch vụ pháp lý và để phù hợp với quan niệm thương mại dịch vụ và dịch vụ[mang tính] thương mại được quy định ở hiệp định chung GATS [Điều I,Khoản 3b, 3c] và theo các quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả xin đưara quan niệm về dịch vụ thương mại pháp lý của mình [Có thể gọi tắt là dịchvụ pháp lý nếu theo quan niệm của hiệp định GATS, WTO]: “Dịch vụ thươngmại pháp lỷ là loại hình dịch vụ liên quan tới lĩnh vực pháp luật mà công việccủa bên cung ứng dịch vụ thực hiện cho khách hàng để hưởng lợi nhuận cóliên quan chặt chẽ với các vấn đề pháp luật, quyền và nghĩa vụ theo pháp luậtmà bên sử dụng dịch vụ quan tâmNhư vậy, việc hành nghề luật sư chỉ là một phần của dịch vụ thươngmại pháp lý nhưng những nhà cung cấp dịch vụ thương mại pháp lý lại khôngbao quát hết những người thực hành nghề luật [nói cách khác, ngành dịch vụthương mại pháp lý không bao hàm đầy đủ các công việc liên quan đến ngànhluật. Ví dụ như tham gia tố tụng vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiếnhành tố tụng, tư vấn pháp lý miễn phí cho người nghèo của trung tâm trợ giúppháp lý...]1.2.2. Phân loại dịch vụ thương mại pháp lýViệc phân loại dịch vụ thương mại pháp lý cũng là vấn đề được tranhluận trong thời gian dài. Như đã nêu ở phần trên, việc liệt kê danh mục cácngành dịch vụ của WTO theo tài liệu MTN.GNSAV/120 ngày 10/07/1991 dựavào hệ thống phân loại sản phẩm trung ương tạm thời của LHQ và ngành dịchvụ [thương mại] pháp lý có mã số 861. Việc dẫn chiếu như vậy để các thành 16viên WTO đưa ra cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý của mình đãphát sinh nhiều vấn đề. Trước hết cùng xem xét CPC prov. 861 [36] về ngànhdịch vụ pháp lý của Liên Hiệp Quốc861Dịch vụ pháp lỷ8611 Dịch vụ tư vấn và đại diện pháp lý trong các lĩnh vực luật pháp khácnhau86111 Dich vu tư vẩn và đai diên pháp lý liên quan tời luât hình sưDịch vụ đại diện và tư vấn pháp lý trong quá trình kiện tụng và dịch vụsoạn thảo văn bản pháp luật liên quan tới luật hình sự. Nhìn chung,dịch vụ này liên quan tới việc bảo vệ thân chủ trước cơ quan xét xửtrong trường hợp phạm tội hình sự. Tuy nhiên, dịch vụ này cũng có thểbao gồm việc đóng vai trị là người xét xử trong vụ án hình sự khỉnhững người hành nghề luật tư được chỉnh phủ thuê trên cơ sở trả phỉ.Cũng bao gồm dịch vụ bào chữa trong trường hợp xét xử ữước tịa vàcác cơng việc pháp lý ngồi phạm vi tịa, bao gồm nghiên cứu và cáccơng việc khác để chuẩn bị cho một vụ việc hình sự [ví dụ nghiên cứuvăn bản pháp luật, phỏng vấn nhân chứng, rà sốt chính sách và cácbáo cáo khác], và thực hiện các cơng việc sau quả trình xét xử liênquan tới luật hình sự.86119 Dich vu tư vẩn và đai diên trone thủ tuc tư pháp liên auan tớicác lĩnh vưc luât pháo khácDịch vụ từ vấn và đại diện trong quả trình tố tụng tịa án và soạn thảocác văn bản pháp luật liên quan tới các luật khác với luật hình sự. Dịchvụ đại diện thường bao gồm việc đại diện cho khách hàng với vai trò làbên nguyên hoặc bên bị đơn. Các dịch vụ này cũng bao gồm bào chữatrong trường hợp xét xử trước tịa và các cơng việc pháp ỉỷ ngồi phạmvi tịa, bao gồm nghiên cứu và các công việc khác để chuẩn bị cho mộtvụ việc [ví dụ nghiên cứu văn bản pháp luật, phỏng vấn nhăn chứng, ràsoát chỉnh sách và các bảo cáo khác], và thực hiện các công việc sauquả trình xét xử liên quan tới luật khác luật hình sự. 18Ngoai trừ: Dịch vụ thay mặt một trong các bên liên quan để đại diệntrong cuộc tranh chấp và dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực quan hệ laođộng được liệt kê tại tiểu mục 86190 [các dịch vụ thông tin và tư vẩnpháp luật khác], 95110 [dịch vụ do các tổ chức doanh nghiệp và ngườithuê lao động cung cấp] và 95200 [các dịch vụ do cơng đồn cungcấp].Việc phân loại dịch vụ [thương mại] pháp lý theo CPC prov. cịn một sốthiếu sót. Trong dịch vụ chứng nhận và chứng từ pháp lý [86130] đã khôngquy định về một hoạt động, đó là đăng ký và bảo vệ bằng sáng chế, quyền tácgiả và quyền sở hữu trí tuệ.Hệ thống phân loại sản phẩm trung ương CPC của Liên Hiệp Quốc đãđược sửa đổi 3 lần kể từ phiên bản tạm thời năm 1991. Phiên bản mới nhấthiện nay được đưa ra vào tháng 12/2008 - CPC 2.0, giữ lại phần lớn các yếutố nhưng có thay đổi về mã của dịch vụ pháp lý và việc giải thích đom giảnhơn.CPC 2.0 [ 3 7 ]8211 82110 Dịch vụ tư vẩn và đại diện liên quan tới luật hình sựPhân loại này bao gồm:Dịch vụ tư vấn, dịch vụ đại diện và các dịch vụ khác liên quantới luật hình sự [bào chữa, tìm kiếm chứng cứ, nhân chứng, nhàchuyên môn...]8212 82120 Dịch vụ tư vẩn và đại diện liên quan tới ttnh vực luật khácPhân loại này bao gồm:Dịch vụ tư vấn, đại diện và các dịch vụ pháp lỷ khác liên quan vềthủ tục tư pháp và các thủ tục mang tỉnh tư pháp khác về luậtdân sự, luật hành chỉnh, luật hiến pháp, luật quốc tế, luật vềquân sự và các lĩnh vực luật khác hình sự.8213 82130 Dịch vụ chứng nhận và chứng từ pháp lýPhân loại này bao gồm:-Soạn thảo và chứng thực các chứng từ và các dịch vụ liên quanđến bằng sáng chế, quyền tác giả và quyền sở hữu trí tuệ. 19- Soạn thảo và chứng thực các chứng từ và các dịch vụ liên quanđến chứng từ pháp lý như di chúc, hợp đồng hôn nhân, hợp đồngthương mại, điều lệ doanh nghiệp...8219 Dịch vụ pháp lý khác82191 Dịch vụ trọng tài và hòa giảiPhăn loại này bao gồm:- Dịch vụ trọng tài hoặc trung gian hòa giải nhằm giải quyết cáctranh chấp giữa người lao động và người quản lý, giữa cácdoanh nghiệp với nhau hoặc giữa các cá nhân.Phân loại này không bao gồm- Dịch vụ đại diện cho một trong các bên tranh chấp, được phânloại vào mục 82120.82199 Dịch vụ pháp lý khác- Dịch vụ giữ giao kèo, chứng thư.- Dịch vụ khác.Trong phân loại CPC 2.0 dịch vụ pháp lý đã được liệt kê trong mã 821.Lần đầu tiên trong việc phân loại các dịch vụ pháp lý CPC 2.0 đã chỉ ra rõràng dịch vụ tư vấn và đại diện về luật quốc tế [mã 8212]. Thêm vào đó, CPC2.0 đã đề cập đến các dịch vụ về bằng sáng chế và quyền tác giả như nhữnghoạt động thuộc dịch vụ chứng nhận và chứng từ pháp lý 8213, CPC 2.0 cũngđã bổ sung dịch vụ trọng tài và hòa giải như là một phân loại của dịch vụ pháplý, không liên quan tới các dịch vụ tư vấn quản lý như CPC prov.Mặc dù vậy, việc phân loại theo CPC prov. bị đánh giá là không phảnánh đúng thực tiễn thương mại dịch vụ pháp lý. Trong quá trình xây dựngcam kết theo GATS, Năm 2002, Australia đã đưa ra đề xuất cách phân loạisau [20] thích họp hơn trong việc mơ tả các mức độ mở cửa thị trường khácnhau trong dịch vụ pháp lý:[i] Luật của nước cung cấp dịch vụ [tư vấn/đại diện][ii] Luật của nước thứ ba [tư vấn/đại diện][iii] Luật của nước tiếp nhận dịch vụ [tư vấn/đại diện][iv] Luật quốc tế [tư vấn/đại diện] 20[v] Soản thảo và chứng nhận chứng từ pháp lý[vi] Các dịch vụ pháp lý khác.Theo cách phân loại này, các nước khi gia nhập WTO sẽ cam kết hạnchế hoặc mở rộng việc cung cấp các dịch vụ pháp lý liên quan tới luật củanước tiếp nhận dịch vụ, luật của nước cung cấp dịch vụ, luật của nước thứ bahoặc luật quốc tế... Cách phân loại này đã được WTO đưa ra trong tuyên bổchung về dịch vụ pháp lý vào năm 2005 [21]. Trong tuyên bố chung này, cũngđã đưa ra khái niệm rộng về dịch vụ pháp lý bao gồm: Dịch vụ tư vấn phápluật [legal actvỉsory services]; Dịch vụ đại diện [legal representationalservỉces];Dịchvụtrọngtàivàhịagiải[arbỉtrationandconciliatiorì/mediation services] và Dịch vụ tư vấn, chứng từ pháp lý vàchứng thực được thực hiện bởi các nhà cũng cấp dịch vụ được ủy thác bởicác chức năng công, như dịch vụ cơng chứng.Thực tế cho thấy trong q trình gia nhập WTO, chỉ có 13 thành viên sửdụng phân loại dịch vụ pháp lý theo CPC prov 861 mà khơng có bất kỳ sửađổi nào [trong đó có Việt Nam] và khoảng 60 thành viên đã thay thế bằngcách phân loại như trên [22].Với việc phân loại trên của pháp luật thế giới về dịch vụ thương mạipháp lý, chúng ta cùng xem xét việc tương thích của pháp luật Việt Nam. Theopháp luật Việt Nam, cụ thể là LLS 2006, quy định tại Điều 4 về dịch vụ pháp lýcủa luật sư và được cụ thể hơn tại Điều 22 về phạm vi hành nghề của luật sư cóthể chia các dịch vụ thương mại pháp lý mà luật sư thực hiện bao gồm:- Dịch vụ tư vấn pháp luật,- Dịch vụ tranh tụng, tức tham gia tố tụng với với tư cách là người bàochữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi củangười bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụliên quan trong vụ án hình sự; Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diệnhoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích họyp pháp của nguyên đơn, bị đơn, ngườicó quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hơnnhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu

Video liên quan

Chủ Đề