Nguyên nhân lao đô ng tre em

Hơn 1,75 triệu lao động trẻ em và người chưa thành niên, trong đó, 1,3 triệu trẻ em phải làm việc trong các nghề bị cấm sử dụng lao động chưa thành niên. Việc ngăn chặn và giảm thiểu LĐTE đang là vấn đề thách thức tại VN.

Nguyên nhân lao đô ng tre em
Phần lớn lao động trẻ em tại Việt Nam sống ở khu vực nông thôn.

Ảnh: Lưu Quang Phổ

85% Lao động trẻ em (LĐTE) ở khu vực nông thôn

Tại hội thảo hướng dẫn thực hiện Chương trình Phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2016 - 2020 do Bộ Lao động -Thương binh - Xã hội (LĐ-TB-XH) phối hợp với Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNICEF), Tổ chức Lao động quốc tế tại Việt Nam (ILO) tổ chức sáng 1.12, ông Đặng Hoa Nam, Cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Bộ LĐ-TB-XH) cho hay, tại Việt Nam vẫn còn khoảng 1,75 triệu LĐTE và người chưa thành niên từ 5 - 17 tuổi, chiếm 9,6% tổng dân số trẻ em. Độ tuổi trẻ em bắt đầu làm việc phổ biến ở độ tuổi 12 - 13 tuổi (chiếm 68,7%). LĐTE tập trung chủ yếu ở nhóm tuổi từ 15 - 17 tuổi (gần 58%).

Đáng chú ý theo ông Nam, có tới 85% trẻ em sinh sống ở khu vực nông thôn và 15% sống ở khu vực thành thị. LĐTE tập trung chủ yếu ở 3 ngành nghề: nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp - xây dựng. Trong đó, nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất, gần 1,18 triệu em (chiếm 67%). Trẻ em có nguy cơ làm trong các nghề bị cấm sử dụng lao động chưa thành niên hoặc điều kiện lao động độc hại là 1,3 triệu em (chiếm 75% LĐTE). Thời gian làm việc bình quân của các em 42 giờ/tuần

Mặc dù Việt Nam đã ban hành hệ thống luật pháp và chính sách nhằm đảm bảo hiện thực hóa quyền của trẻ em, đặc biệt là phòng ngừa và giảm thiểu LĐTE, nhưng theo bà Đào Hồng Lan, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, vấn đề LĐTE vẫn còn là thách thức. Nhận thức của gia đình các em và chính các em, cũng như người sử dụng lao động còn hạn chế, thiếu hiểu biết về pháp luật, chính sách liên quan đến LĐTE. “Đói nghèo được xem là nguyên nhân chính dẫn đến việc trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế và từ đó dẫn đến nguy cơ LĐTE. Việc thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm liên quan đến LĐTE, đặc biệt trong khu vực kinh tế phi chính thức còn nhiều bất cập, chưa phổ biến được đầy đủ đến các địa phương khái niệm và cách xác định LĐTE. Bên cạnh đó, vấn đề LĐTE cũng là thách thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế nói chung và trong việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do nói riêng. và giảm thiểu LĐTE”, bà Lan nói.

Đại diện của Bộ LĐ-TB-XH còn cho hay, việc trẻ em phải lao động sớm đã và đang để lại hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến sự phát triển hài hòa của trẻ em, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế, xã hội, nhất là tương chất lượng của nguồn nhân lực trong tương lai. “Việc tham gia lao động sớm không chỉ cản trở sự phát triển về thể chất và tâm lý của trẻ em mà còn cản trở việc tiếp cận và thụ hưởng nền giáo dục phù hợp, cản trở việc chuẩn bị một tương lai tốt hơn cho chính các em”, bà Lan chia sẻ.

\n

Thí điểm mô hình hỗ trợ giảm thiểu LĐTE

Để giải quyết vấn đề LĐTE, ông Đặng Hoa Nam cho biết, trong Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE giai đoạn 2016-2020 sẽ triển khai thí điểm mô hình hỗ trợ, can thiệp để giảm thiểu LĐTE. Mô hình tập trung vào các xã, phường, thị trấn có nhiều trẻ em tham gia lao động hoặc các làng nghề truyền thống, cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc thuộc khu vực kinh tế phi chính thức có trẻ em học nghề và tham gia lao động. Ông Nam chia sẻ: “Mô hình hoạt động sẽ hướng tới tập huấn kỹ năng sống, trang bị cho trẻ em những kỹ năng tự bảo vệ bản thân; trợ giúp gia đình có trẻ em tham gia lao động trái quy định của pháp luật về kiến thức, kỹ năng, tay nghề để ổn định sinh kế, tăng thu nhập; hỗ trợ người sử dụng lao động tại các làng nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh cải thiện điều kiện làm việc, tạo việc làm phù hợp với độ tuổi của trẻ em”.

Ông Chang Hee Lee, Giám đốc Văn phòng tổ chức lao động quôc tế (ILO) tại VN cho rằng, việc chấm dứt lao động cưỡng bức, buôn bán người và LĐTE là một bước cơ bản để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn, rộng mở và bền vững, tạo việc làm đầy đủ và năng suất và công việc tốt cho tất cả mọi người. Đại diện ILO cam kết sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ LĐ-TB-XH và các cơ quan, tổ chức liên quan hỗ trợ việc triển khai chương trình phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE giai đoạn 2016-2020. “Không chỉ hành động ở cấp quốc tế và quốc gia, mà đồng thời tại cấp tỉnh và cấp địa phương để đưa ra những nỗ lực tốt nhất nhằm xóa bỏ LĐTE, đấu tranh vì một tương lai tốt đẹp hơn cho trẻ, đặc biệt các em trong hoàn cảnh khó khăn, mang lại một tương lai tươi sáng hơn cho xã hội Việt Nam”, ông Lee khẳng định.

Ðiều đó thể hiện khá rõ ràng trong luật pháp quốc tế và trong nước. Công ước số 138 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã quy định, tuổi tối thiểu được làm việc trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được dưới 15 tuổi.

Ở nước ta, Bộ luật Lao động cũng đã nói rõ: Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc (những trường hợp ngoại lệ có quy định riêng).

Từ các quy định đó nên các nước trên thế giới và ở nước ta hầu như không tổ chức thống kê theo dõi lao động trẻ em thường xuyên.

Nhưng thực tế thì từ lâu trẻ em ở nhiều nước đã làm việc với tư cách một lao động kiếm sống cho mình và cho gia đình, nhất là các em ở độ tuổi 10-14.

Ở nước ta, theo các số liệu điều tra dân số định kỳ các năm 1979, 1989, 1999 và điều tra chọn mẫu giữa các kỳ cho thấy, trẻ em 13-14 tuổi đã tham gia lao động (hoạt động kinh tế) ở thành thị khoảng 18%, ở nông thôn khoảng 38%.

Hơn hai thập kỷ nay những trẻ em làm việc như người lớn để nuôi mình, nuôi gia đình không còn là hiện tượng cá biệt.

Trong đó đáng lưu ý nhất là những trẻ em tha phương, làm những công việc nặng nhọc quá sức với đồng tiền công thấp kém, rẻ mạt.

Ðể xử lý vấn đề này một cách căn bản, hiệu quả, Nhà nước cần tiến hành một cuộc điều tra để đánh giá đúng hiện trạng, từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp.

Hiện nay, theo những thông tin có được thì trong số hàng triệu người tự do di trú từ nông thôn ra các đô thị tìm kiếm việc làm có khoảng 25-30% là trẻ em dưới 14 tuổi. Một hiện tượng khác còn đáng lo ngại hơn là một bộ phận trẻ em hoặc do hoàn cảnh, hoặc là bị lường gạt, bị ép buộc phải đến các vùng xa xôi (miền núi, biên giới...) lao động nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm, không an toàn tính mạng mà công sá hoàn toàn không tương xứng với hao phí lao động kiểu vắt sức...

Hiện tượng này trái với Ðiều 12 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 2004) đã quy định: Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ và đạo đức; vi phạm nghiêm trọng việc: lạm dụng lao động trẻ em, sử dụng lao động trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động.

Vì sao có tình trạng này, nguyên nhân từ đâu? Không thể không nói đến những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có tác động đến lao động trẻ em.

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy thì đôi khi mới có trẻ em phải lao động vất vả, những trường hợp đó chủ yếu là ở nông thôn. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa, ở khu vực phi nông nghiệp chế độ tuyển dụng và sử dụng lao động bảo đảm cho trẻ em không lâm vào tình trạng làm việc trước tuổi, làm việc quá sức.

Khi bước vào nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế thì việc sử dụng lao động trẻ em đã khác biệt rất xa so với trước đây.

Ngay trong nông nghiệp nông thôn cũng đã có sự biến đổi lớn. Từ khi hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế tự chủ kinh doanh thì tất cả các hộ đều tận dụng sức lao động của gia đình mình, trong đó có lao động trẻ em, cho dù xã hội còn dư thừa lao động chính - lao động người lớn.

Như vậy, với 75% dân số sinh sống, làm việc ở nông thôn thì việc thu hút lao động trẻ em vào các công việc đồng áng, ruộng vườn đã mang tính phổ biến, nhất là vào thời gian các em nghỉ hè. Ở lĩnh vực công thương nghiệp, dịch vụ do việc kiểm tra, kiểm soát, quản lý lao động của các cấp không chặt chẽ nên không ít trẻ em phải lao động nặng nhọc với thời gian hàng chục giờ/ngày.

Cũng trong nền kinh tế thị trường, giãn cách giàu nghèo khá rõ mà một bộ phận trẻ em buộc phải đi tìm kiếm việc làm xa nhà và lâm vào tình trạng bị lạm dụng sức lao động. Từ đó tạo điều kiện cho chủ doanh nghiệp tư nhân tiết kiệm chi phí sản xuất bằng biện pháp sử dụng nhiều lao động vị thành niên với tiền công rẻ mạt.

Về mặt xã hội, do có nhiều biến cố lớn của một số gia đình như: Cha mẹ bất hòa, ly hôn... nên bỏ mặc con cái, các em tự lo cuộc sống cho mình, phải đi làm kiếm sống...

Xử lý cho được những vấn đề nói trên không phải đơn giản. Trên thực tế các nguyên nhân có sự đan xen, tác động qua lại lẫn nhau, phải thực hiện cùng lúc nhiều giải pháp.

Trước hết, gia đình và xã hội cùng có trách nhiệm với trẻ em. Người làm cha, làm mẹ hơn ai hết phải ý thức được nghĩa vụ của mình với con cái. Vì thế không vì nghèo túng, không vì bức xúc bởi đồng tiền, bát gạo mà bắt con cái phải bỏ học sớm dấn thân vào những công việc quá nặng nhọc, lam lũ. Về phía Nhà nước và cộng đồng phải thông qua các chính sách, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, miễn giảm học phí, viện phí, cứu trợ xã hội... để giúp họ có thể vượt qua khốn khó.

Về mặt luật pháp, chính sách, quản lý, phải tập trung hơn nữa việc chống lạm dụng sức lao động trẻ em. Trong chương trình hành động bảo vệ và phát triển trẻ em Việt Nam và trong chỉ đạo thực hiện chương trình này cho đến nay hầu như mới chỉ tập trung nhiều vào bốn loại vấn đề là sức khỏe cho mọi trẻ em; giáo dục tiểu học; chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần; quan tâm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trong nền kinh tế thị trường và trong tình hình hiện nay phải triệt để chống lạm dụng sức lao động trẻ em, vì nếu trẻ em lâm vào tình trạng lao động sớm, làm việc quá sức thì các mục tiêu bảo vệ sức khỏe, giáo dục đào tạo, văn hóa tinh thần... đều khó mà thực hiện được.

Qua đó, đẩy mạnh tuyên truyền vận động lao động, việc làm, nhất là vùng nông thôn xa xôi. Các chương trình thời sự, chương trình vì trẻ thơ của đài truyền hình, đài phát thanh phải nói kỹ, nói rõ, nói theo cách dân dã để ông bà, cha mẹ các cháu hiểu được vấn đề. Các chương trình văn hóa, văn nghệ cũng cần đề cập sâu sắc tới vấn đề này. Ðoàn thanh niên, Hội đồng đội phải phổ biến các kiến thức thiết thực đến các em. Các cơ quan chức năng của Nhà nước phải giới thiệu, phổ biến, tập huấn sâu rộng Bộ luật Lao động đến mọi người dân, có lưu ý đầy đủ đến những người sử dụng lao động nhất là các cơ sở, các hộ tư nhân sản xuất, kinh doanh.