Quy định về sử dụng hệ tọa độ VN2000
Hệ tọa độ VN2000 là gì, các thông số của hệ VN2000 và một số cách chuyển đổi hệ tọa độ từ VN2000 sang WGS84 và ngược lại. Cùng tìm hiểu ở phần sau nhé. Show
Hệ tọa độ vn2000 gồm những thông số nào? Kinh tuyến trung ương hệ tọa độ VN2000 ở các tỉnh. Cùng tìm hiểu ngay sau đây Theo quyết định số 83/2000/QĐ-TTg ngày 12/7/2000 của Thủ tướng chính phủ, hệ tọa độ VN-2000 được ban hành: Hệ tọa độ vn2000 gồm những thông số nào
Chuyển đổi hệ tọa độ VN2000 sang WGS84 và ngược lạiPhần này, dovenhanh.com viết chi tiết tại: Các hệ tọa độ trong trắc địa? Cách chuyển hệ tọa độ Trong bài viết đó, dovenhanh.com cũng giới thiệu đầy đủ kinh tuyến trung ương các tỉnh tại Việt Nam theo hệ VN2000. Giới thiệu quá trình xây dựng và cách thức xây dựng hệ VN2000Đây là một tài liệu cực kỳ quý để hiểu tại sao có hệ tọa độ VN2000 hiện nay. Cách để chúng ta xây dựng hệ tọa độ VN2000. Tác giả là tiến sĩ Trần Bạch Giang biên soạn. Quá trình thành lập hệ tọa độ VN2000Giới thiệu về hệ tọa độ VN2000Mình xin phép được trích đoạn quá trình thành lập hệ tọa độ VN2000. Quá trình xây dựng hệ quy chiếu và hệ toạ độ quốc gia nước ta được phân ra các giai đoạn như sau: II.1 GIAI ĐOẠN 1959 – 1975Trong giai đoạn này Cục Đo đạc – Bản đồ nước ta với sự giúp đỡ trực tiếp của Tổng cục Trắc hội Trung quốc đã xây dựng lưới các điểm toạ độ cơ sở theo phương pháp tam giác đo góc truyền thống phủ trùm toàn Miền Bắc ở dạng lưới tam giác hạng I (mật độ khoảng 250 Km2 có 1 điểm) và lưới tam giác hạng II (mật độ khoảng 100 Km2 có 1 điểm). Song song với lưới toạ độ, lưới độ cao hạng I và hạng II cũng được xây dựng phủ trùm Miền Bắc. Hệ toạ độ – độ cao này có độ chính xác khá cao và đáp ứng mọi nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước. II.2 GIAI ĐOẠN 1975 – 1991Sau ngày thống nhất đất nước (1975) Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước tiếp tục phát triển lưới toạ độ trên vào các tỉnh phía Nam để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Lưới tam giác đo góc hạng I được phát triển tới Đà Nẵng và lưới tam giác đo góc hạng II dọc theo các tỉnh duyên hải Miền Trung cho tới Thành phố Hồ Chí Minh. Để đáp ứng cung cấp toạ độ kịp thời cho các ngành và các địa phương, lưới toạ độ phủ trùm cho miền Nam được xây dựng theo từng lưới nhỏ gối nhau, toạ độ điểm cuối của lưới trước là toạ độ khởi đầu của lưới sau, thậm chí tại đồng bằng Nam bộ còn phải chọn 2 điểm khởi đầu là các điểm gần đúng được tính chuyển từ Miền Bắc vào (điểm 64629 – Nhà thờ Hạnh Thông Tây tại Tp. Hồ Chí Minh làm khởi đầu cho lưới toạ độ Đông Nam bộ, điểm II-06 tại An giang làm khởi đầu cho lưới toạ độ Tây Nam bộ). Đây là một tồn tại lịch sử đương nhiên phải trải qua, đồng thời cũng là nguyên nhân làm cho hệ thống toạ độ hiện tại Hà Nội – 72 thiếu tính thống nhất, một điểm có thể có vài toạ độ tham gia vào các lưới địa phương khác nhau có độ lệch lớn nhất tới trên 10m. Song song với lưới điểm toạ độ, Cục Đo đạc – Bản đồ Nhà nước đã tiến hành xây dựng lưới điểm độ cao hạng I, hạng II nối dài từ Miền Bắc. Để chỉnh lý chính xác một lưới toạ độ quốc gia cần phải đo lưới các điểm thiên văn (kinh độ, vỹ độ và phương vỵ) với mật độ khoảng 18.000 Km2 có 1 điểm, lưới điểm trọng lực cơ sở và chi tiết, lưới điểm trắc địa vệ tinh. Trước đây Tổng cục Trắc hội Trung Quốc đã giúp ta đo đạc các điểm thiên văn đủ mật độ cho khu vực Miền Bắc. Từ sau năm 1975 Tổng cục Trắc địa – Bản đồ Liên xô cũ đã tiếp tục giúp ta đo đạc đủ mật độ các điểm thiên văn phủ kín khu vực phía Nam, xây dựng lưới trọng lực cơ sở toàn quốc có đo nối với lưới quốc tế và đo một số lưới trọng lực chi tiết, xây dựng lưới trắc địa vệ tinh Doppler. II.3 GIAI ĐOẠN 1991 – 1994Vào năm 1991 Cục Đo đạc – Bản đồ Nhà nước đã quyết định đưa công nghệ định vị toàn cầu GPS(global positioning system) vào áp dụng ở Việt Nam để hoàn chỉnh hệ thống toạ độ quốc gia. Lưới toạ độ cơ sở tại các địa bàn chưa phủ lưới là Tây nguyên, Sông bé, Minh hải trên đất liền và lưới toạ độ biển trên tất cả các đảo chính tới tận 21 đảo thuộc quần đảo Trường sa đã được xây dựng bằng công nghệ GPS. Đến năm 1993 trên địa bàn cả nước đã được phủ kín các lưới thiên văn, trắc địa, trọng lực, vệ tinh, đủ số liệu để tính toán chỉnh lý hệ quy chiếu và hệ toạ độ quốc gia. Từ 1992 đến năm 1994 công trình tính toán bình sai lưới thiên văn – trắc địa – vệ tinh cả nước đã được tiến hành. Kết quả chính của công trình này là:
II.4 GIAI ĐOẠN 1994 – 1999Khi xem xét việc hoàn chỉnh hệ quy chiếu và hệ toạ độ quốc gia, Tổng cục Địa chính đã nhận thấy một số yếu tố mới về công nghệ cần nghiên cứu thêm để sự lựa chọn phù hợp hơn cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Các định hướng sau đây đã được xác định:
Trong 2 năm 1996 và 1997 Tổng cục Địa chính đã quyết định đo lưới GPS cạnh dài độ chính xác cao phủ lên lưới toạ độ truyền thống đã xây dựng, lưới này có tên là lưới toạ độ cơ sở cấp “0”. Quá trình thành lập hệ tọa độ VN2000Cuối năm 1998 đến cuối năm 1999 công trình xây dựng hệ quy chiếu và hệ toạ độ quốc gia đã tổ chức nhiều hội thảo quốc gia để thảo luận các kết quả đã đạt được. Các kết quả chủ yếu là:
Cho đến nay tất cả các ý kiến cá nhân cũng như cơ quan đều nhất trí với kết luận trên của công trình. Để hiểu hơn về họa tọa độ, có thể tham khảo thêm bài hệ tọa độ WGS84 Link tải: Gioi Thieu VN-2000 Đo Vẽ Nhanh cung cấp Dịch vụ đo đạc của công ty đo đạc địa chính Tp. Hồ Chí Minh chuyên nghiệp và nhanh. Với 15 năm kinh nghiệm tư vấn đo đạc địa chính tại Tp. Hồ Chí Minh. #dovenhanh |