So sánh cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam

So sánh cải tổ chính trị ở VN và TQ

Nguồn hình ảnh, Reuters

Chụp lại hình ảnh,

Nhiều trí thức Trung Quốc cho rằng nước họ phải học Việt Nam về cải tổ chính trị

Kể từ năm 2006, cải tổ chính trị ở Việt Nam đã được thực hiện theo cách tương tự ở Trung Quốc trong nửa cuối thập niên 1980 trước khi tàn sát Thiên An Môn năm 1989 làm mọi sự chựng lại.

Đặc biệt, một cơn sốt truyền thông còn mô tả Việt Nam là đi trước Trung Quốc về cải tổ chính trị, sau khi Quốc hội Việt Nam bác bỏ đề nghị của chính phủ về hệ thống đường sắt cao tốc năm 2010. Giới cải cách Trung Quốc xem vụ này là tiến bộ rất đáng kể trong quá trình xây dựng cơ chế kiểm tra ở tầng mức cao nhất trong chính trị Việt Nam. Nhiều người Trung Quốc tin rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ sớm cho phép để hai người nắm chức Tổng Bí thư và Chủ tịch nước, giống như ở Việt Nam.

Trước đó, người Trung Quốc còn ca ngợi tiến bộ của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực cải tổ lớn: tranh đua chức Tổng Bí thư, bầu trực tiếp Đại biểu Quốc hội [người Trung Quốc được cho hay một số ứng viên độc lập đã giành được ghế trong Quốc hội], và Quốc hội Việt Nam bác bỏ một số ứng viên bộ trưởng do Thủ tướng đưa ra. Báo chí Trung Quốc nói với độc giả rằng các phiên họp Quốc hội Việt Nam có thể xem trực tiếp, và không phải chuyện hiếm khi các quan chức cao cấp lúng túng, toát mồ hôi trước câu hỏi khó của dân biểu.

Ai ngưỡng mộ ai?

Mặt khác, một số người Việt lại có thể nói rằng thay đổi chính trị ở Trung Quốc đáng được Việt Nam ngưỡng mộ. Trung Quốc đã bỏ tù vài thành viên Bộ Chính trị và tử hình nhiều cán bộ ở cấp bộ trưởng, cấp tỉnh vì tham nhũng. Suốt nhiều thập niên, nông dân Trung Quốc được phép bầu trưởng thôn và bí thư xã cũng được chọn một cách cạnh tranh, trong khi ở Việt Nam, những việc như thế chỉ mới được thí điểm.

Một người bạn Việt Nam bảo tôi rằng sự ngưỡng vọng lẫn nhau như thế có thể xem là hội chứng “cỏ nhà người khác xanh hơn”. Tôi đồng ý, vì ở cả hai nước, đảng cộng sản không tỏ ra có dấu hiệu sẵn sàng chia sẻ quyền lực với người khác. Một dấu hiệu cho thấy cả hai đảng sẵn sàng ở lại nắm quyền vĩnh viễn là sự hình thành “thái tử đảng” ở cả Hà Nội và Bắc Kinh. Một lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc nói ngay từ thập niên 1980, trước khi Liên Xô sụp đổ, rằng “chúng ta chỉ có thể tin con cháu của mình”. Sự thách thức mang tính tổ chức chống lại Đảng bị loại hẳn ở hai nước và thường bị trừng phạt nhanh chóng. Nghề báo cũng là nghề nguy hiểm nhất. Kết quả là, ở cả hai nước, khủng hoảng xã hội đã hằn sâu thêm như các vụ tranh chấp đất gần đây ở Ô Khảm và Tiên Lãng.

Nguồn hình ảnh, AFP

Chụp lại hình ảnh,

Dân làng Trung Quốc đã có thể tự bầu trưởng thôn

Với những sự tương tự căn bản như trên, có vẻ hài hước khi bàn nước nào “tiến bộ hơn” về cải tổ chính trị. Nhưng tôi vẫn phải nói rằng thảm cỏ dân chủ ở Việt Nam dường như xanh hơn Trung Quốc một chút, đặc biệt khi xét về tiềm năng tương lai. Niềm tin này chủ yếu được củng cố bằng việc so sánh hiến pháp hai quốc gia.

Cải tổ chính trị ở Việt Nam gặp ít hạn chế hiến pháp hơn, nếu ta so sánh những điều quan trọng nhất trong phần đầu của hai bản hiến pháp. Tôi ngạc nhiên khi biết câu nói “Của dân, do dân và vì dân” của Abraham Lincoln được nhắc lại y chang trong Hiến pháp Việt Nam. Nó cũng nói “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Hiến pháp Việt Nam còn nhấn mạnh “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, mở ngỏ để có thể giải thích rõ hơn về tam quyền phân lập. Những từ này không hề có trong Hiến pháp Trung Quốc.

So sánh Hiến pháp

Hiến pháp Việt Nam không nhấn mạnh bản chất “xã hội chủ nghĩa” của nhà nước”. Nhưng Hiến pháp Trung Quốc, ngay điều đầu tiên, không chỉ tuyên bố Trung Quốc là “nhà nước xã hội chủ nghĩa” mà còn cảnh cáo ngăn cấm việc “phá hoại hệ thống xã hội chủ nghĩa”. Hiến pháp Trung Quốc đòi hỏi nhân dân Trung Quốc “chiến đấu chống lại các thế lực, ở cả trong nước và nước ngoài, thù địch và có ‎ định phá hoại hệ thống xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc”. Trong khi đó, điều đầu tiên của Hiến pháp Việt Nam chỉ nói “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”. Ở điều Ba, Việt Nam chỉ nói “nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân” mà không nhắc đến “chủ nghĩa xã hội”.

Một điều khác có thể so sánh là quan niệm “đấu tranh giai cấp dưới chế độ xã hội chủ nghĩa”. Hiến pháp Trung Quốc nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sẽ tồn tại thời gian dài, còn của Việt Nam không thấy nhắc đến từ này. Việc đưa cụm từ này vào hiến pháp cho thấy Đảng Cộng sản cố tình đặt tiền đề cho việc đàn áp lớn ở trong nước.

So sánh hai hiến pháp, ít nhất về mặt ngôn từ, có vẻ như ở Việt Nam, những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa lập hiến và bản chấp trung lập của nhà nước được tôn trọng nhiều hơn – vì thế có nhiều khoảng trống hơn cho cải tổ chính trị tiếp theo. Hiến pháp Trung Quốc phản dân chủ hơn. Ở Trung Quốc gần đây, một số trí thức đề nghị lập ra “chính thể một đảng lập hiến”, rõ ràng lấy cảm hứng từ “chế độ quân chủ lập hiến” để thỏa hiệp giữa chế độc độc đảng và dân chủ. Nếu thực sự có một chính thể lạ đời như vậy, Việt Nam có thể sẵn sàng hơn một chút và Bắc Kinh chắc chắn sẽ học gì đó từ Hà Nội.

Ngoài ra, tôi lạc quan về Việt Nam hơn một chút khi so sánh sự biến đổi xã hội hậu cộng sản ở hai nước. Ở đây, “hậu cộng sản” ám chỉ việc từ bỏ các học thuyết Stalin-Mao-it, cải tổ kinh tế và mở cửa với thế giới. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vượt qua điểm bế tắc năm 1989 cùng khủng hoảng chính thể kèm theo sau đó, và nay tự tin hơn khi Trung Quốc nhanh chóng trở thành tân siêu cường. Đảng Cộng sản Trung Quốc công khai nói với thế giới rằng họ đã tìm ra con đường hiện đại hóa mới bằng cách bác bỏ dân chủ và tự do. Ôn Gia Bảo – thủ tướng ít quyền lực – là lãnh đạo duy nhất còn cổ vũ “cải tổ chính trị”. Chẳng ai nói theo ông. Trong phiên họp gần đây của Quốc hội Trung Quốc, “cải tổ chính trị” gần như trở thành cấm kị.

Nhiều người dễ nói với bạn rằng ở Trung Quốc hôm nay, có nhiều tự do trí thức hay thậm chí tự do ngôn luận. Nó thể hiện qua các tranh luận trái chiều trên và ngoài mạng. Thậm chí có cả cổ vũ chính trị - cả chủ nghĩa tự do, tân tự do, tân tả, tân Mao, cựu Mao, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa hiếu chiến, tân phát xít, tân Nho giáo. Nhưng sẽ là sai lầm khi nghĩ rằng một nền văn hóa lành mạnh sẽ sinh ra từ sự bừng nở trí thức này. Phần nào đó, Trung Quốc hôm nay rất giống nước Đức [1919-1933], hay Nhật Bản thập niên 1920 và 1930. Ở hai nước giai đoạn đó, trên bề mặt là sự cạnh tranh của nhiều hệ tư tưởng, nhưng rốt cuộc chủ nghĩa phát xít hay chủ nghĩa dân tộc quá khích đã chiến thắng.

Tại Trung Quốc, xu hướng này đã phát triển cùng tình cảm chống phương Tây, đặc biệt là bài Mỹ, mặc dù sự thăng tiến của Trung Quốc là nhờ giao thiệp với phương Tây. Chủ nghĩa dân tộc mới này không chỉ phản dân chủ mà còn mang tính bành trướng. Theo nó, lịch sử hiện đại Trung Quốc là “100 năm ô nhục”. Nó xem nhiều nước là kẻ thù của Trung Quốc mà Việt Nam là kẻ gây rối khu vực. Việt Nam bị cho là vô ơn cho dù Trung Quốc đã giúp đỡ trong thập niên 1950 và 1960. Việt Nam đã quên béng “bài học” mà Trung Quốc đã dạy trong chiến tranh Việt – Trung 30 năm trước, không biết về khả năng quân sự hiện nay của Trung Quốc mà lại mong Hoa Kỳ hỗ trợ. Theo những người dân tộc chủ nghĩa bàn luận trên mạng, mà cũng được ủng hộ của nhiều trí thức, viên chức dân sự, quân sự, cuộc chiến đầu tiên khi Trung Quốc đã trở thành quyền lực toàn cầu sẽ có thể là giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nhật Bản và Ấn Độ cũng nằm trong danh sách trả thù, nhưng đó là kẻ thù khó hơn và chiến tranh sẽ có hậu quả quốc tế nghiêm trọng hơn.

Chính thể Việt Nam chưa gặp khủng hoảng nghiêm trọng như Trung Quốc 1989. Chúng ta không rõ liệu những cải tổ chính trị hiện nay sẽ tiếp tục để chính thể hạ cánh nhẹ nhàng, hay cải tổ sẽ đi đến mức khiến Đảng đối diện tình hình tương tự như Trung Quốc năm 1989. Nhưng ta biết từ năm 2006, Việt Nam đã thảo luận và thí điểm cải tổ theo một cách chưa hề có ở Trung Quốc.

Ở Việt Nam, tình cảm bài phương Tây, bài Mỹ không thu hút như ở Trung Quốc. Chủ nghĩa tự do phương Tây cũng có đôi chút ảnh hưởng trong lịch sử Việt Nam, như thể hiện qua Tuyên ngôc Độc lập của Hồ Chí Minh. Thật không thể hình dung một chính khách Mỹ, dẫu là Lincoln, lại được Hiến pháp Trung Quốc trích dẫn. Ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc không đi chung với tư tưởng phản dân chủ như ở Trung Quốc. Thái độ đó với Mỹ và phương Tây chắc chắn có tác động đến những nỗ lực vì dân chủ.

Để kết luận, chính thể cộng sản ở Trung Quốc phản dân chủ hơn và khuyến khích chủ nghĩa dân tộc bài phương Tây hung hăng hơn. Không có nghĩa là Trung Quốc sẽ không dân chủ hóa. Nhưng tôi chỉ muốn nói rằng Việt Nam có vị thế tốt hơn để tiến hành thêm cải tổ chính trị.

Tác động qua lại về dân chủ hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam là thế này. Cải tổ ở Việt Nam cho phép những thảo luận hay thậm chí cổ vũ chính trị vốn không dễ xảy ra ở Trung Quốc. Nếu Trung Quốc có những cải tổ nghiêm túc, nó sẽ tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho Việt Nam. Nhưng nếu Trung Quốc không cải tổ, Việt Nam sẽ đối diện một láng giềng bành trướng và dân tộc quá khích. Dĩ nhiên, chúng ta chỉ nhận biết được tương lai khi nó đã xảy ra.

Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả Trình Ánh Hồng [Yinghong Cheng] một sử gia người Mỹ gốc Hoa, Phó Giáo sư tại Đại học Delaware State, Hoa Kỳ.

Sự tương đồng, khác biệt giữa đường lối cải cách và đổi mới trong kinh tế ở Trung Quốc - Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [176.86 KB, 33 trang ]

ĐỀ CƯƠNG
Lời mở đầu
Nội dung
I. Hoàn cảnh tiến hành đổi mới và cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam
1. Điểm tương đồng
2. Điểm khác biệt
II. Nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường ở Trung Quốc và Việt Nam
1. Ở Trung Quốc
2. Ở Việt Nam
III. Những cải cách và đổi mới trong kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam
1. Chế độ sở hữu
2. Nông nghiệp
3. Công nghiệp
4. Kinh tế đối ngoại
IV. Đường lối và chính sách mở cửa ở Trung Quốc và Việt Nam
V. Thành tựu đạt được ở Trung Quốc và Việt Nam trong cải cách, đổi mới
1. Ở Trung Quốc
2. Ở Việt Nam
VI. Những bài học kinh nghiệm trong đổi mới, cải cách
1. Ở Trung Quốc
2. Ở Việt Nam
Kết luận.
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã
trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia
có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự
thống trị của phong kiến và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào
khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn
con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, đưa đất nước ngày càng phát triển.
Những cuộc cải cách của Trung Quốc trong quá trình xây dựng Chủ Nghĩa Xã


Hội được ghi nhận như những cố gắng lớn lao nhằm tìm ra lối thoát cho một
quốc gia Xã hội chủ nghĩa trì trệ trở thành năng động, phát triển. Nó còn đóng
góp nhiều kinh nghiệm cho các nước phát triển đi lên hiện đại.
Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, cũng phải trải qua nhiều
năm dưới ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa đế quốc thực dân cùng với
các cuộc chiến tranh liên miên đã làm cho đất nước bị tàn phá nặng nề. Ngay
sau khi thành lập nước chúng ta đã kiên quyết xây dựng thành công Chủ Nghĩa
Xã Hội, cũng thực hiện nhiều cải cách trong kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu và
hoạt động thực tiễn của Việt Nam đã từ lâu quan tâm đến việc theo dõi cuộc cải
cách kinh tế ở Trung Quốc, lấy đó làm kinh nghiệm cho Việt Nam. Có người
cho rằng công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam rất giống với cải cách kinh tế ở
Trung Quốc, thậm chí cho rằng là “bản sao” của cuộc cải cách ấy. Tuy nhiên
nếu xem xét kĩ thì thấy rằng bên cạnh nhiều điểm tương đồng, cải cách kinh tế
và mở cửa ở Trung Quốc với đổi mới kinh tế ở Việt Nam còn có nhiều điểm rất
khác nhau. Tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt này sẽ giúp cho ta thấy được
những gì có thể tham khảo, những gì không thể hoặc không nên tham khảo từ
cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc vào Việt Nam để có những đường lối
chính sách phù hợp, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế nói riêng và của toàn
đất nước nói chung.
2
NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH TIẾN HÀNH ĐỔI MỚI VÀ CẢI CÁCH
Ở TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM.
Đối với công cuộc cải cách, đổi mới thì hoàn cảnh có vai trò hết sức quan
trọng. Tuy đó không phải là điều kiện quyết định đối với thành công của cuộc
cải cách, đổi mới đó nhưng nó lại góp phần vào sự thành công và thắng lợi. Và
thực tế lịch sử ở Việt Nam và Trung Quốc đã chứng minh điều đó. Qua nghiên
cứu chúng ta thấy giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng và
khác biệt về hoàn cảnh khi tiến hành cải cách, đổi mới.
1. Về điểm tương đồng: Thứ nhất cả Việt Nam và Trung Quốc


đều tiến hành cải cách, đổi mới trong điều kiện điểm xuất phát thấp, nền kinh tế
lạc hậu, và đều là những nước nông nghiệp với trình độ kĩ thuật lạc hậu, còn phụ
thuộc vào “nền văn minh đòn gánh”, đời sống của nhân dân thuộc loại thấp,
những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như ăn, ở… vẫn chưa được giải quyết
đầy đủ; cơ sở công nghiệp yếu mỏng, mất cân đối, công nghiệp lạc hậu gây khó
khăn cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nơi sản sinh và nuôi dưỡng yếu
tố bất lợi cho việc hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Trong khi đó nông
nghiệp được coi là nghành chủ yếu nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng lạc
hâu, trì trệ, công cụ canh tác còn thô sơ, lạc hậu, năng suất thấp kém, sản lượng
ít không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Mặt khác cơ chế kinh tế khi chưa đổi
mới kìm hãm nền kinh tế, nhiệt tình lao động, năng lực sáng tạo và nguồn lực tài
nguyên chưa được khai thác, huy động đầy đủ, thậm chí còn bị xói mòn. Cơ chế
kinh tế vận động thiếu năng lực, kém hiệu quả mất cân đối, nguy cơ bất ổn định
tiềm tàng trong đời sống. Kinh tế xã hội tích nén lại, tình trạng thiếu hụt kinh
niên đang gia tăng nhanh trong đời sống xã hội…
Thứ hai cả hai nước có cùng chung ý thức hệ mong muốn thực hiện, xây
dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế nghèo nàn lạc hậu, muốn bỏ qua chế
độ Tư bản chủ nghĩa, quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian dài cả hai
nước đều theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mà có nguồn gốc là
3
mô hình kinh tế kế hoạch hoá Xô Viết, mô hình đó đã lâm vào khủng hoảng
nghiêm trọng biểu hiện ở năng suất sút kém ở mọi nghành, kinh tế lạc hậu về
khoa học, kĩ thuật, đời sống nhân dân thiếu thốn, nhưng vẫn luôn hi vọng, tin
tưởng vào sự thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội. Cả hai nước đều cùng chịu tác
động của văn hoá, lịch sử truyền thống tương tự nhau. Di sản nặng nề của tư
tưởng phong kiến, quan liêu vẫn phát huy và ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống
xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc, đó chính là nguyên nhân kìm hãm hai nước
trong tình trạng trì trệ, kém phát triển lâu dài.
Thứ ba tuy hai nước bắt đầu cải cách và đổi mới không cùng thời gian
nhưng bối cảnh quốc tế suốt thời kì đó không có sự thay đổi lớn và những yếu tố


tác động đến cuộc cải cách này vẫn tồn tại. Đáng kể nhất là việc Liên Xô và các
nước Đông Âu đang trong quá trình từ bỏ mô hình Chủ nghĩa xã hội kiểu Xô
Viết và chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đặc biệt lúc này kinh tế Nhật Bản và
nền kinh tế công nghiệp mới NIEs trong khu vực đã đạt được những thành tựu
nổi bật và kinh nghiệm quý báu. Điều đó thúc đẩy Việt Nam và Trung Quốc
phải đổi mới để theo kịp các nước. Đây cũng là lúc thế giới đang đi đến đòi hỏi
sự hợp tác phân công lao động của tất cả các nước, xu hướng hợp tác hoá, quốc
tế hoá ngày càng cao bất kể sự khác nhau về chính trị, văn hoá. Đồng thời nguy
cơ các thế lực Tư bản chủ nghĩa và phản động đang tìm mọi cách phá hoại cách
mạng, thực hiện âm mưu diến biến hoà bình để thay đổi, xoá bỏ chế độ Chủ
nghĩa xã hội.
Thứ tư là sự yếu kém về năng lực lãnh đạo, tổ chức và sự trì trệ trong phát
triển kinh tế xã hội đã làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản, vào nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Vì thế cần phải sáng
tạo trong đường lối kinh tế và công tác lãnh đạo phải triệt để sáng suốt.
2. Về sự khác biệt: Thứ nhất về điều kiện tự nhiên Trung Quốc là
nước đông dân, lãnh thổ rộng lớn [ thứ ba trên thế giới ], chính điều đó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư, khoa học kĩ thuật hiện đại do tạo
được thị trường có nhiều ưu thế, hấp dẫn về tài nguyên, lao động. Tuy nhiên nó
cũng tạo ra sự khó khăn cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và quản lý… Còn ở
4
Việt Nam tuy ít dân hơn, diện tích cũng nhỏ hơn, quy mô vừa phải hợp lí, do đó
tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận sự chỉ đạo vĩ mô của nhà nước.
Thứ hai về điều kiện xã hội: ở Việt Nam phải gánh chịu hậu quả của hai
cuộc chiến tranh chống ngoại xâm với hơn 30 năm đấu tranh không ngừng, đã
tàn phá nền kinh tế nặng nề, khả năng phục hồi lâu, còn ở Trung Quốc không có
chiến tranh mà chỉ có một số cuộc nội chiến, đụng độ ở vùng biên giới ít gây
ảnh hưởng đến nền kinh tế và cùng với đó là một số chính sách kinh tế xã hội
như cuộc cách mạng đại văn hoá đã có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển
kinh tế, nó đã đẩy mạnh bánh xe tiến trình lịch sử Trung Quốc hàng chục năm.


Mặt khác người Trung Quốc sớm tỉnh ngộ, nhận ra lý do đưa đất nước làm vào
khủng hoảng nghèo nàn còn người Việt Nam chưa phân biệt được đâu là lỗi do
chính trị, đâu là lỗi do mình nên chưa tìm được lối thoát cho nền kinh tế.
Thứ ba về điều kiện bên ngoài: Trung Quốc có một lực lượng đông đảo
người Hoa và người Hoa kiều đang sống ở nhiều nước và khu vực trên thế giới
đặc biệt là ở các nước và vùng lãnh thổ như Hồng Kông, Đài Loan, Singapo,
Malaxia đây được coi là bốn nước Trung Quốc nhỏ, có tiềm năng về vốn, kỹ
thuật, tri thức quản lý kinh doanh, truyền thống tổ chức chặt chẽ… những người
này có quan hệ mật thiết với đất nước, trợ giúp rất nhiều cho công cuộc cải cách,
đổi mới ở Trung Quốc. Còn ở Việt Nam mặc dù cũng có một cộng đồng người
Việt kiều đang sinh sống và học tập ở nước ngoài nhưng số lượng vừa phải,
không đủ mạnh như Trung Quốc để góp phần vào sự phát triển chung của đất
nươc.
Thứ tư về địa vị chính trị: Trung Quốc là nước có uy thế chính trị lớn, là
một trong năm thành viên thường trực của hội đồng bảo an liên hiệp quốc.
Trong những năm 60 Trung Quốc có sự phân biệt trong quan hệ với Liên Xô và
các nước Đông Âu, thắt chặt mối quan hệ chính trị kinh tế với Mĩ và các nước
Tây Âu. Trong khi đó Việt Nam khi tiến hành cải cách, đổi mới còn đang bị Mĩ
cấm vận nên gặp nhiều khó khăn, địa vị chính trị thấp kém.
5
Thứ năm là về thời điểm tiến hành cải cách: Trung Quốc tiến hành đổi
mới sớm hơn Việt Nam [năm 1978] còn Việt Nam tiến hành năm 1986, do đó
Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm tiếp thu trực tiếp từ Trung Quốc.
II. NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ VÀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC:
Ngay từ đầu cuộc cải cách và đổi mới, Trung Quốc và Việt Nam đều
xem xét và trước sau lần lượt xác định lựa chọn nền kinh tế thị trường, hàng hoá
nhiều thành phần thay thế cho nền kinh tế tập trung cao độ trước đây. Từ đại hội
XIV Đảng cộng sản Trung Quốc [tháng 10-1992], Trung Quốc tuyên bố mục
tiêu của họ là thực hiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam từ đại


hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã dùng khái niệm kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Dù có khác nhau về chữ nghĩa, nhưng cả hai loại quan điểm trên đều có nhiều
cái chung: thứ nhất là đều chủ trương lấy chế độ công hữu làm nền tảng, tuy có
thừa nhận tính đa dạng của các thành phần kinh tế khác nhau; thứ hai là đều xem
phân phối theo lao động là chính, đồng thời thừa nhận các hình thức phân phối
khác nhau; thứ ba là khẳng định vai trò định hướng và khống chế của nhà nước;
đồng thời thừa nhận vai trò điều tiết thị trường. Sở dĩ có những quan điểm chung
này là vì Việt Nam và Trung Quốc có những nét tương đồng về hoàn cảnh lịch
sử của đất nước. Tuy nhiên giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn có những sự khác
nhau trong cách làm và thực hiện các chính sách, kế hoạch.
1. Ở Trung Quốc: Khi cải cách mới bắt đầu, tuy Trung Quốc chưa
nêu lên một cách rõ ràng phải thực hiện kinh tế thị trường trong điều kiện chủ
nghĩa xã hội, nhưng trong thực tiễn đã bắt đầu cải cách theo phương hướng này.
Sau khi hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng cộng sản Trung Quốc, Chính
phủ Trung Quốc thực hiện cơ chế thị trường đầu tiên ở nông thôn với biện pháp
ban đầu là thực hiện chế độ khoán sản lượng đến hộ gia đình, làm cho nông dân
trở thành chủ thể kinh doanh tự chủ, nâng cao giá nông sản phẩm, mở của thị
trường thành thị và nông thôn, điều này là hoàn toàn phù hợp với Trung Quốc
6
một đất nước có 80% dân số là nông dân. Bởi vì Trung Quốc có ổn định hay
không trước hết phải xem 80% dân cư đó có ổn định không, không có ổn định ở
nông thôn thì không có ổn định ở thành thị; còn ở thành thị, tiến hành thí điểm
cải cách mở rộng quyền tự chủ kinh doanh xí nghiệp, giảm bớt kế hoạch pháp
lệnh đối với sản xuất và tiêu thụ … Những cải cách này tuy mới chỉ là bước đầu
nhưng nó đã phá vỡ thể chế kinh tế kế hoạch, làm cho cuộc cải cách của Trung
Quốc từ đây bước vào quỹ đạo đi theo hướng thị trường. Đại hội XII Đảng cộng
sản Trung Quốc năm 1982 đã tổng kết những kinh nghiệm bước đầu của cải
cách ở thành thị và nông thôn, nêu lên phương châm “kinh tế kế hoạch là chính,
điều tiết thị trường là phụ”, phân kế hoạch thành hai loại là kế hoạch pháp lệnh


và kế hoạch mang tính chỉ đạo; đồng thời yêu cầu tự giác lợi dụng quy luật giá
trị, vận dụng các đòn bẩy kinh tế như giá cả, thuế, cho vay…hướng dẫn các xí
nghiệp thực hiện kế hoạch Nhà nước. Mặc dù việc nhận thức về thị trường lúc
đó còn có tính hạn chế tương đối, nhưng đối với lý luận kinh tế kế hoạch truyền
thống mà nói, đây là một lần đột phá. Theo đà cải cách nông thôn đạt được
thành tựu to lớn, để thích ứng với trọng điểm của cải cách chuyển từ nông thôn
sang thành thị. Hội nghị Trung ương 3 khoá XII Đảng cộng sản Trung Quốc
năm 1984 đã thông qua “Nghị quyết của trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc
về cải cách thể chế kinh tế”, nêu rõ kinh tế xã hội chủ nghĩa là kinh tế hàng hoá
trên cơ sở chế độ công hữu. Phát triển đầy đủ kinh tế hàng hoá là giai đoạn
không thể bỏ qua của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện tất yếu để thực
hiện hiện đại hoá kinh tế của Trung Quốc. Chỉ có phát triển đầy đủ kinh tế hàng
hoá, mới có thể làm cho nền kinh tế có sức sống chân chính. Chính vì thế lúc
này nền kinh tế thị trường của Trung Quốc tồn tại nhiều thành phần kinh tế đó
là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế hỗn hợp, kinh tế tư doanh, kinh tế
cá thể, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vị trí chủ đạo, các thành
phần kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể và tư doanh ở cả thành thị và nông thôn đều
cần phải tiếp tục khuyến khích phát triển. Cũng trong thời gian này Trung Quốc
tuyên bố đã kết thúc thời kì quá độ, đang ở giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa xã
hội, và giai đoạn này kéo dài khoảng 100 năm. Chính việc xác định này đã cho
7
phép Trung Quốc duy trì nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần khác nhau
trong một thời gian dài. Điều này rất quan trọng vì nó làm cho các thành phần
kinh tế và lực lượng thị trường trong và ngoài nước yên tâm đầu tư và kinh
doanh. Mặt khác Trung Quốc đã hạn chế, khắc phục được mặt trái của cơ chế
thị trường, đem lại sự công bằng, bình đẳng hơn cho người lao động, đây là bản
chất nền kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Về vấn đề này, báo
cáo chính trị tại đại hội XV Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1997 đã khẳng
định rõ: kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phát triển kinh tế thị trường dưới
điều kiện của Chủ nghĩa xã hội. Điều kiện của Chủ nghĩa xã hội là nắm vững


chuyên chính dân chủ nhân dân, độc quyền sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, kiên
trì chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Những tiêu chí trên đây
đã tạo ra sự khác biệt về bản chất giữa Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội
khi cùng áp dụng nền kinh tế thị trường. Đó cũng là nét đặc sắc của Chủ nghĩa
xã hội đang được xây dựng ở Trung Quốc.
2. Ở Việt Nam: Tháng 12-1986 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng diến ra trong bối cảnh đất nước đang trong cuộc khủng hoảng kinh
tế – xã hội trầm trọng. Trong khi đó các thế lực thù địch hợp sức tấn công Chủ
nghĩa xã hội quyết liêt. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, từ khảo nghiệm thực tế, từ trong phong trào quần chúng nhân dân kết hợp
với trí tuệ của toàn Đảng, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, khẳng định quyết tâm đổi mới theo tinh thần cách mạng và khoa học, đổi
mới tư duy, khắc phục quan niệm, nhận thức giản đơn về Chủ nghĩa xã hội, về
sản xuất hàng hoá và thị trường Xã hội chủ nghĩa. Một trong những đường lối
đổi mới quan trọng nhất là đổi mới về cơ chế và chính sách kinh tế. Đại hội VI
kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, từng bước thực
hiện cơ chế hạch toán kinh tế trong kinh doanh, thực hiện nhất quán chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế
8
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã trở
thành một đường lối kinh tế quan trọng, sự thực sự lựa chọn đó không phải xuất
phát chủ yếu từ những phân tích lí luận và nghiên cứu mô hình kinh tế mà là kết
quả của một quá trình tìm tòi, mõ mẫm, làm thử hơn 10 năm khi thực hiện
chuyển đổi kinh tế. Trong những năm 80 nền kinh tế Việt Nam lâm vào trầm
trọng và kéo dài, tăng trưởng chậm, lạm phát rất cao, thất nghiệp lớn, nợ nần


trong và ngoài nước khó trả, hàng hoá thiếu thốn, kể cả lương thực, đời sống
nhân dân khó khăn. Đứng trước nhiệm vụ cấp bách phải sớm ra khỏi khủng
hoảng, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và phát triển kinh tế, Việt Nam đã lựa chọn
con đường cải cách kinh tế sâu rộng và toàn diện gọi là chính sách “đổi mới”.
Quá trình đổi mới kinh tế cũng giống như Trung Quốc, chủ yếu là quá trình:
chuyển từ một nền kinh tế chỉ có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể chuyển sang một nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm cả kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài; đó là quá trình chuyển từ một nền kinh tế điều hành theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung và bao cấp chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường có cạnh tranh và sự điều tiết của nhà nước; đó cũng là quá trình
chuyển từ một nền kinh tế khép kín và tự cấp tự túc sang nền kinh tế mở, cả đối
với trong và ngoài nước. Quá trình cải cách kinh tế đó đã chuyển một nền kinh
tế không hiệu quả sang một nền kinh tế có hiệu quả, từ sự điều hành duy ý chí
sang sự quản lý kinh tế hiện thực, chứ không có nghĩa là hoàn toàn thay đổi mục
tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam. Nền kinh tế nhiều thành
phần đó vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là xây dựng một đất
nước trong đó dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đến đầu những năm 90 những nội dung trên được diễn đạt thu gọn trong
một câu đã trở thành quen thuộc “xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa”. Lúc này những đề xuất tại đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam
9
1986 đã bắt đầu phát huy kết quả. Tuy nhiên một đặc điểm nổi bật của tình hình
triển khai thực hiện chính sách cải cách thời gian đó là Việt Nam mở đầu đường
lối cải cách, đồng thời tìm lối thoát ra khỏi khủng hoảng chủ yếu bằng sức lực
của chính mình trong khi nguồn viện trợ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ
nghĩa đã cạn dần và gần như chấm dứt khi Chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng
hoảng, đồng thời cuộc cấm vận kinh tế do Mĩ và các nước đồng minh áp đặt sau
chiến thắng của Việt Nam năm 1975 ngày càng khép chặt. Việc thực hiện các


chính sách đổi mới kinh tế vừa do áp lực của bối cảnh tình hình, vừa nhằm tìm
ra con đường phát triển lâu dài thích hợp với các điều kiện của Việt Nam đã và
đem lại kết quả nhanh chóng. Chỉ một chính sách giải toả “ngăn sông cấm chợ”
cho phép nông dân tự do bán nông phẩm làm ra, giảm bớt sự can thiệp độc
quyền của nhà nước, đã xoá bỏ được chế độ tem phiếu lương thực và tăng nhanh
sản lượng đưa Việt Nam từ một nước nhập khẩu sang một nước xuất khẩu lương
thực thứ hai, thứ ba thế giới, cùng với nó lạm phát giảm từ trên 700% xuống còn
45%, các doanh nghiệp vừa và nhỏ được hình thành tự do kinh doanh trong thị
trường. Đến năm 1993-1994 kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng, tăng
trưởng đạt 7-8% năm, lạm phát giảm còn 1-2%, tạo thêm nhiều việc làm, đời
sống nhân dân cải thiện rõ rệt… Trong điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam
những kết quả đó được đánh giá là to lớn và rất quan trọng, nó chứng tỏ một nền
kinh tế phụ thuộc vào viện trợ từ bên ngoài có thể vươn lên tự chủ bằng sức lực
của mình, một nền sản xuất kém hiệu quả có thể trở thành hiệu quả nhờ thay đổi
cơ chế quản lý kinh tế, nó cũng chứng tỏ chính sách phát triển kinh tế hàng hoá
hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và có khả năng phát huy
các nguồn lực của đất nước để tạo ra bước phát triển tương đối nhanh và vững
chắc. Tuy nhiên khác với Trung Quốc hiện nay Việt Nam đang đặt mình ở thời
kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chưa bước vào chủ nghĩa xã hôi, chưa
xác định thời gian [ dù một cách tương đối ], nên cải các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần có thể còn e ngại, hoài
nghi, băn khoăn về tính chất tạm thời và ngắn hạn của chính sách, do đó có thể
chưa dám đặt ra những kế hoạch làm ăn lâu dài. Như vậy mô hình kinh tế thị
10
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một vấn đề mới, hiện còn
đang trong giai đoạn hình thành và hoàn thiện. Tuy có nhiều kết quả có thể
khẳng định sự đúng đắn và ý nghĩa to lớn của nó, song còn nhiều vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu và phát triển.
III. NHỮNG CẢI CÁCH VÀ ĐỔI MỚI TRONG KINH
TẾ Ở TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM.


Trong nền kinh tế cả Việt Nam và Trung Quốc đều có những cải cách cụ
thể trong từng lĩnh vực, nghành nghề để tạo nên sự phát triển chung cho toàn đất
nước:
1. Chế độ sở hữu: Trước cải cách, theo quan niệm truyền thống,
chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
[dưới hai hình thức nhà nước và tập thể; trong đó kinh tế nhà nước là hình thức
cao, kinh tế tập thể là hình thức thấp của chế độ công hữu, hình thức thấp phải
quá độ sang hình thức cao]. Cũng theo quan niệm này, chế độ công hữu không
chỉ xem xét là đồng nhất với chủ nghĩa xã hội, mà còn không dung hợp với cơ
chế thị trường; bỏi vậy chế độ công hữu càng lớn, càng thuần nhất thị càng có
nhiều chủ nghĩa xã hội, còn tư hữu bị đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Những
nhận thức sai lầm trên đã đẩy nền kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam đi đến trì
trệ, tụt hậu. Cùng với việc thừa nhận nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã
hội, cả Trung Quốc và Việt Nam đã có sự đột phá lớn trong vấn đề sở hữu. Cả
hai nước đã chọn kết cấu sở hữu đa nguyên gồm: chế độ công hữu, chế độ sở
hữu hỗn hợp, chế độ phi công hữu trong đó coi chế độ công hữu là chủ thể, địa
vị của chế độ công hữu chủ yếu ở vốn của sở hữu nhà nước và tập thể chiếm ưu
thế trong tổng số vốn xã hội. Tiếp đó Đảng cộng sản hai nước tiếp tục cải cách
chế độ sở hữu khi tách rời chế độ công hữu với hình thức thực hiện chế độ công
hữu. Đây chính là biện pháp mà Đảng và nhà nước ta đã học tập từ cải cách của
Trung Quốc. Theo đó thì trước cải cách, chế độ công hữu và hình thức thực hiện
nó là đồng nhất với nhau, thì ngày nay hình thức thực hiện chế độ công hữu rất
đa dạng, có thể thông qua hình thức sở hữu hỗn hợp cổ phần, hình thức tổ chức
11
vốn của xí nghiệp hiện đại. Thông qua hình thức cổ phần nhà nước, một mặt
vừa đảm bảo vai trò chủ thể của công hữu, mặt khác đảm bảo tránh sự phân hoá
hai cực, thực hiện mục tiêu giàu có.
2. Nông nghiệp: cả Việt Nam và Trung Quốc đều lấy đây làm nội
dung quan trọng nhất của công cuộc cải cách, đổi mới, với Trung Quốc ngay
sau Hội nghị TW lần 3, nông thôn Trung Quốc đã thực hiện ngay chế độ khoán


trong sản xuất nông nghiêp. Chế độ khoán thực chất là hình thức lao động hợp
đồng, được kí kết giữa ba bên: nhà nước, tập thể, hộ hay nhóm hộ nông dân. Sau
khi kí kết, các đội sản xuất căn cứ vào kế hoạch của nhà nước và điều kiện cụ
thể của mình để giao ruộng đất và các hạng mục sản xuất cho các hộ hoạc nhóm
hộ nhận khoán kinh doanh. Trong quá trình thực hiện hộ nông dân phải nộp thuế
nông nghiệp, phải bán một số lượng sản phẩm theo yêu cầu của nhà nước. Bên
cạnh đó, nông dân còn phải nộp một phần sản phẩm thu nhập cho tập thể để gây
công quỹ, phần còn lại hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của nông dân. Tất nhiên
phần hoa lợi mà nông dân được hưởng phải thoả đáng, có tác dụng khuyến
khích vật chất với người lao động. Như vậy chế độ khoán ở nông thôn Trung
Quốc là hình thái cụ thể của việc tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
kinh doanh ruộng đất. Với việc tách rời như vậy, người nông dân đã phát huy
được quyền tự chủ trong kinh doanh sản xuất. Qua thực tế, chế độ khoán đã làm
cho kinh tế tập thể và hoạt động kinh doanh của gia đình có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi thể hiện qua các hợp đồng kinh tế.
Chế độ khoán trong nông nghiệp ở Trung Quốc bắt đầu từ năm 1979 tới
nay đã qua hai giai đoạn: từ 1979 đến 1983 là giai đoạn hình thành các hình
thức khoán, từ 1984 đến nay là giai đoạn tiến tới hoàn thiện chế độ khoán tới hộ.
Nhìn chung tới năm 1984, 100% các đội sản xuất đã thực hiện chế độ khoán.
Với chế độ khoán, hình thức của nó khá đa dạng như khoán theo chuyên
môn, tính thù lao theo sản lượng: khoán sản lượng tới tổ, tới người lao động và
tới hộ. Sự đa dạng về hình thức khoán có ưu điểm là nó phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng, những hình thức khoán nói
trên song song cùng tồn tại và bổ sung cho nhau. Nhìn chung tâm lý của người
12
nông dân thích khoán tới hộ hơn. Hình thức này dần dần trở thành phổ biến.
Qua thực tế diễn biến về nông nghiệp Trung Quốc trong những năm gần đây
cho thấy chế độ khoán mang tính phổ biến vì nó phù hợp với điều kiện khách
quan của Trung Quốc, phù hợp với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.


Chế độ khoán đã đem lại những thắng lợi cơ bản cho nông nghiệp Trung
Quốc. Sản lượng lương thực tăng nhanh, nếu năm 1978 là 304,7 triệu tấn thì
năm 1987 là 402 triệu tấn. Những sản phẩm khác trong nông nghiệp như bông,
dầu, mía, thịt… đều tăng. Điều đáng chú ý là ở nông thôn Trung Quốc cả nông,
lâm, ngư nghiệp và chăn nuôi đều phát triển nhanh chóng. Theo đà phát triển
của nông nghiệp, thì các nghành phi nông nghiệp ở nông thôn cũng phát triển
mạnh. Tỉ trọng giá trị sản lượng của công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải
và thương nghiệp ở nông thôn trong tổng giá trị sản phẩm của kinh tế nông thôn
tăng từ 31,4% năm 1978 lên 46,9% năm 1986.
Cũng giống như Trung Quốc, kể từ năm 1976 Việt Nam đã bắt đầu tiến
hành cải cách nhưng đến năm 1986 mới thực sự đi vào cải cách có hiệu quả.
Ngày 13/1/1981 Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam ban hành chỉ thị
100 CT/TW về “cải tiến công tác khoán”, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm
lao động “trong hợp tác xã nông nghiệp”, đánh dấu bước đột phá đầu tiên trong
tư duy quản lý kinh tế, tạo động lực quan trọng thúc đẩy quá trình đổi mới trong
nông nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế nước ta.
Trong thời kì đầu của cuộc cải cách, cả Trung Quốc và Việt Nam đều thực
hiện chính sách nâng giá nông sản, giảm giá vật tư nhưng lại có kết quả trái
ngược nhau. Ở Trung Quốc chính sách này đã chẳng những làm cho thu nhập
của nông dân tăng lên mà còn thúc đẩy sản lượng tăng trưởng theo định hướng.
Còn ở Việt Nam động lực đổi mới này suy giảm nhanh chóng do trong nền kinh
tế mức trợ cấp chung vẫn cao, thâm hụt ngân sách nhà nước tăng, tỉ lệ lạm phát
cao. Đến năm 1987 ở nhiều nơi, phần còn lại của nông dân sau khoán chỉ còn
20% hay thấp hơn nữa, nhiều người không nộp đủ sản lượng phải nợ hợp tác xã,
sản xuất nông nghiệp lại bị trì trệ. Thời tiết xấu năm 1987 đã làm giảm sản
13

Nội dung So sánh Cải cách kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu So sánh Cải cách kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 8 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview So sánh Cải cách kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Cải cách ở Trung Quốc và Đổi mới ở Việt Nam

Trang nhà > Sáng tạo > Đổi mới > Cải cách ở Trung Quốc và Đổi mới ở Việt Nam

Vào dịp 60 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa [1949-2009], báo chí Trung Quốc đã có những bài viết về thành tựu phát triển đất nước, trong đó nhắc tới sự thành công của mô hình kinh tế kiểu Trung Quốc.

Chưa có một định nghĩa cuối cùng, nhưng các học giả Trung Hoa cũng như phương Tây đã bàn nhiều về mô hình phát triển Trung Quốc. Những từ thường được dùng để mô tả nó là: cải cách, mở cửa, thử nghiệm, chuyển đổi từ bên trong, tiến bộ từng bước, Nhà nước định hướng mạnh, tăng trưởng kinh tế, và ổn định chính trị.

Sự so sánh để tìm những tương đồng và khác biệt giữa mô hình Trung Quốc và Việt Nam không phải vấn đề bây giờ mới được nhắc tới. Ít nhất thì các nhà khoa học của cả hai nước đã từng tiến hành nhiều hội thảo và thực hiện các công trình nghiên cứu so sánh công cuộc cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam.

Trung Quốc bắt đầu cải cách từ năm 1978, còn Việt Nam từ năm 1986. So với phần còn lại của thế giới cũng tiến hành chuyển đổi [Liên Xô, các nước Đông Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin], hai nước chia sẻ nhiều điểm chung hơn, chẳng hạn cả hai đều kiên trì con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Điều này khác xa Đông Âu và Liên Xô - là nơi mà, theo chuyên gia lịch sử kinh tế Đặng Phong [1], “đảng Cộng sản chỉ dẫn dắt quá trình chuyển đổi chưa được một nửa con đường, sau đó thì những khủng hoảng chính trị đã làm cho đảng Cộng sản ở các nước đó không còn là người điều hành cuộc chuyển đổi nữa”.

Bên cạnh đó, nội dung đổi mới ở Việt Nam và cải cách ở Trung Quốc còn giống nhau ở một số điểm lớn, như: đa dạng hóa cơ cấu sở hữu [chuyển sang kinh tế nhiều thành phần]; mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh sản xuất hướng về xuất khẩu, v.v.

Chính sự tương đồng đó, cùng với việc Việt Nam tiến hành đổi mới sau Trung Quốc 8 năm, đã làm nảy sinh nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam sao chép mô hình phát triển của Trung Quốc. Gần đây, khi nhìn lại sự thành công của mô hình này, tờ Nhân Dân Nhật Báo số ra ngày 18 tháng 9 năm 2009 có bài viết nhận định Việt Nam là trường hợp “sao chép toàn diện và thành công nhất mô hình Trung Quốc”.

Sự thực thì có tương đồng gì giữa mô hình Trung Quốc và phát triển kiểu Việt Nam?

Cùng một thứ thuốc trị bệnh…

Nói cho đúng thì trong những năm đầu của công cuộc chuyển đổi, Việt Nam và Trung Quốc không ai sao chép ai, mà cả hai đều thực hiện những “phương thuốc” nhỡn tiền phải dùng để chữa trị “căn bệnh” chung. Căn bệnh đó, với các triệu chứng như tập trung bao cấp, sở hữu toàn dân và tập thể, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…, xuất phát từ việc sao chép mô hình của Liên Xô.

Ông Đặng Phong có một so sánh hài hước: “Tóm lại là cả hai đều ăn ổi xanh, ăn ổi xanh thì đều táo bón, tức là đời sống khó khăn, kinh tế đi xuống, bế tắc, khủng hoảng. Cả hai táo bón thì đều cùng phải uống thuốc”.

Thế rồi, trong quá trình chữa bệnh, cả hai cùng có các phản ứng giống nhau. Ví dụ như nạn vỡ bong bóng tín dụng. Ở Việt Nam giai đoạn đầu đổi mới có tình trạng bể hụi, vỡ quỹ tín dụng. Ở Trung Quốc những năm 1992-1993 cũng xảy ra việc hàng loạt ngân hàng phá sản.

Sau này, hai nước lại tiếp tục chứng kiến bong bóng chứng khoán, méo mó trên thị trường bất động sản, sự phình to và hoạt động không hiệu quả của khối quốc doanh… Về mặt xã hội, cả hai đều phải đương đầu với các vấn đề gay gắt như tham nhũng tràn lan, bất bình đẳng xã hội mở rộng, bần cùng hóa ở một bộ phận dân cư nông thôn miền núi. [2]

Như vậy, có thể thấy là hai “bệnh nhân” mắc bệnh giống nhau, dùng thuốc giống nhau và cùng trải qua các phản ứng tương tự. Tuy nhiên, do mức độ bệnh và thời gian phát bệnh khác nhau nên liều dùng và thời điểm dùng thuốc của hai “bệnh nhân” lại khác nhau.

Mỗi người dùng một khác…

Nói về mức độ của căn bệnh, thì Trung Quốc “bị” nặng hơn Việt Nam, do nền sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng trong thời kỳ Đại nhảy vọt, Công xã nhân dân và Đại cách mạng Văn hóa. Cạnh đó, ở Trung Quốc kỷ cương rất chặt, Nhà nước quản lý tập trung cao độ, thị trường tự do bị xóa sổ. Trong khi ở Việt Nam, nông dân vẫn còn được 5% đất để kinh doanh sản phẩm phụ, và chợ đen vẫn tồn tại với sức sống rất mãnh liệt, dai dẳng.

Trung Quốc cũng bị đẩy vào tình thế phải cải cách sớm hơn Việt Nam, do không có được “bầu sữa viện trợ” kéo dài như Việt Nam.

“Bệnh” nặng hơn và thời gian “phát bệnh” diễn ra trước nên Trung Quốc dùng “thuốc cải cách” trước và có những khác biệt so với Việt Nam. Ngoài ra, thời kỳ 1978-1986 cũng là khoảng thời gian dài quan hệ hai nước căng thẳng nên sự sao chép, học tập về mô hình cải cách là không thể có.

Sự khác biệt lớn nhất được nhà nghiên cứu Đặng Phong đúc kết trong một câu: “Ta phá rào từ dưới lên, còn Trung Quốc phá rào từ trên xuống”. Trung Quốc đã đi theo con đường từ lý luận tới thực tiễn, từ chỉ đạo của Trung ương tới hành động của địa phương. Sau khi đã có những đột phá về lý luận nhằm giải quyết các bế tắc, Trung Quốc mới cho thực hành. Trong khi đó, Đổi Mới của Việt Nam lại bắt đầu từ những vụ “phá rào” ở cơ sở, sau đó được Trung ương chấp nhận và cuối cùng trở thành chính sách. Ví dụ, chính sách khoán bắt đầu từ những hiện tượng tự phát và làm chui của nông dân, mà lãnh đạo địa phương hoặc đồng ý cho làm và “bao che” trước Trung ương, hoặc lờ đi. Có thể kể tới các vụ phá rào “ngoạn mục” như khoán chui ở Hải Phòng, xóa tem phiếu ở Long An, cơ chế mua cao bán cao ở An Giang, mua lương thực với giá thị trường để bán “cứu đói” cho Thành phố Hồ Chí Minh…

Ông Đặng Phong nhận xét: “Thật ra người Việt Nam đã “phá rào” suốt từ… thời chống Mỹ. Đặc tính của dân mình là vậy, linh hoạt, có khả năng xoay xở cao và rất khó đi vào kỷ cương. Ở Trung Quốc, Nhà nước nghiên cứu bài bản rồi mới quyết định dỡ bỏ hàng rào cũ, lập hàng rào mới. Còn ở Việt Nam ta là dân chúng, địa phương chủ động dỡ bỏ quách hàng rào, chẳng theo lý thuyết nào cả”.

Đổi mới, vì thế, mang phong cách rất Việt Nam.

Có hay không sự sao chép?

Đổi mới ở Việt Nam không phải là sự sao chép mô hình cải cách của Trung Quốc. Tuy nhiên, vào những năm về sau trong công cuộc chuyển đổi, có những quyết sách kinh tế – xã hội của Việt Nam được tiến hành sau và mang nhiều nét tương tự như Trung Quốc. Chẳng hạn như chính sách trao quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cho khối doanh nghiệp tư nhân, thành lập thị trường chứng khoán, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước… đều được tiến hành ở Việt Nam sau Trung Quốc vài năm. Việt Nam và Trung Quốc cũng là hai nền kinh tế duy trì vai trò chủ đạo, định hướng phát triển của Nhà nước. Cả hai quốc gia đều thực hiện sở hữu Nhà nước về đất đai, chế độ quản lý chặt chẽ của Nhà nước về tỷ giá hối đoái.

Không thể khẳng định có sự sao chép với chủ ý hay không, nhưng điều chắc chắn là, như trên đã nói, có những phương thuốc chung để hai nước trị các căn bệnh chung. Thêm vào đó, việc một nền kinh tế đi sau tham khảo, học tập hoặc chịu ảnh hưởng từ mô hình của nền kinh tế đi trước là chuyện thường gặp trên thế giới.

Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Đức Thành, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Việt Nam [VEPR], giải thích điều này bằng một ví dụ thú vị: “Trong khoa học về chiến lược, có khái niệm gọi là “hiệu ứng con ngỗng con”. Khi con ngỗng ra đời mà bị cách ly với mẹ, nó có thể tưởng nhà bác học chăm nuôi nó chính là mẹ, và nó sẽ đi theo nhà bác học đó như thể đó là ngỗng mẹ vậy. [3]

Hiện tượng tương tự xảy ra trong kinh doanh và xây dựng chiến lược phát triển: Các nền kinh tế nhỏ, chậm phát triển, đi sau, rất dễ bị ảnh hưởng, thậm chí sao chép một cách có chủ ý từ nền kinh tế có quy mô lớn hơn, gần gũi mình và đi trước mình, vì nghĩ rằng như thế là tốt, là ưu việt. Việt Nam hiện đại chịu ảnh hưởng nhiều từ Pháp, ví dụ như luật dân sự của Việt Nam áp dụng nhiều điều của Pháp. Trong kiến trúc, chúng ta cũng có xu hướng cho rằng kiến trúc Pháp là đẹp, là sang trọng, tóm lại là ưu việt. Trung Quốc ở gần và có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về thể chế, dễ học, nên Việt Nam có tiếp thu mô hình Trung Quốc cũng không lạ”.

Một học giả gốc Hoa ở Mỹ, Li Tan, cũng từng khái quát hóa mô hình phát triển của tất cả các nền kinh tế đi sau, bao gồm cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, thành sự phát triển dưới định hướng của nhà nước. Li Tan viết: “Mô hình phát triển dựa vào nhà nước sẽ tiếp tục có sức hấp dẫn đối với các nền kinh tế phát triển sau… vì nó cho phép các nước nghèo phát triển nhanh hơn để thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế”.

“Chiến lược đuổi kịp”

“Copy, sao chép không bao giờ là tiêu cực, trừ trường hợp copy một cách mù quáng, nông cạn” – Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành khẳng định. Còn nhà nghiên cứu Đặng Phong nhận xét: “Tôi nghĩ Trung Quốc có những đặc điểm, những chính sách mà nếu Việt Nam học tập được thì tốt quá! Ví dụ như trong chiến lược phát triển, cả hai nước cùng hướng về xuất khẩu, nhưng Trung Quốc đi xa hơn Việt Nam ở chỗ họ lấy nguyên liệu của toàn thế giới để sản xuất hàng hóa bán cho thế giới. Còn Việt Nam ta xúc nguyên liệu của mình đi bán để mua hàng hóa bên ngoài về tiêu xài”.

Nhiều người cũng đánh giá cao quyết tâm chống tham nhũng của chính quyền Trung Quốc, sự nghiêm minh của pháp luật, kỷ cương trật tự, hoặc cơ chế sử dụng nhân sự. Ông Đặng Phong nói: “Phải thừa nhận rằng Trung Quốc đào tạo, sàng lọc và tuyển dụng cán bộ ngày càng tốt hơn. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý của họ thật sự rất cao”.

Một nhà kinh tế khác cũng nói về một số chính sách của Trung Quốc mà Việt Nam nên xem xét tham khảo. Ví dụ chủ trương cho các công ty quốc doanh thuê chuyên gia nước ngoài làm quản lý, trả lương rất hậu hĩnh. Hoặc chủ trương trao quyền tự chủ cho hệ thống trường đại học, khuyến khích việc đầu tư của tư nhân ra nước ngoài…

Cho đến nay, có thể nói Trung Quốc thực sự đã đi theo một mô hình kinh tế thể hiện rất rõ quyết tâm của Nhà nước: tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với sự tương đồng về thể chế chính trị, hoàn cảnh xã hội, nếu Việt Nam có thể áp dụng điều gì từ Trung Quốc, như sự nghiêm minh của hệ thống pháp luật hay cơ chế sử dụng nhân sự cấp cao hiệu quả, thì đó chẳng phải là điều tốt hay sao?

Theo Blog Doan Trang

[1] Đặng Phong [1939-2010]: Chuyên gia lịch sử kinh tế, tác giả cuốn "Tư duy kinh tế Việt Nam - Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989"

[2] Tư liệu trong cuốn “Nghiên cứu so sánh Đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc” - công trình hợp tác giữa Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia [Việt Nam] và Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây [Trung Quốc], Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hữu Tầng và Giáo sư Lưu Hàm Nhạc chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2002.

[3] Tác giả của thí nghiệm về “hiệu ứng con ngỗng con” là nhà tâm lý học động vật hàng đầu Konrad Lorenz, Nobel về Y học năm 1973.

Về việc so sánh cải cách chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc

Th5 29, 2012

Lê Tuấn Huy

Bài So sánh cải tổ chính trị ở VN và TQ mới đây của Trình Ánh Hồng đã đem lại những thông tin và nhận định có giá trị. Từ việc so sánh hiến pháp, tác giả truyền đạt cái nhìn lạc quan hơn về cải cách chính trị ở Việt Nam so với Trung Quốc. Điều này không sai nhưng vẫn cần xét thêm.

Như được biết, khởi thủy của hiến pháp Việt Nam là văn bản được ban hành năm 1946, do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo. Nhiều năm sống và hoạt động cách mạng trong chính môi trường của đất nước có cuộc Đại Cách mạng 1789, lý tưởng tự do – bình đẳng – bái ác và pháp quyền không thể không đi vào nhận thức của ông. Ngoài ra, nước Việt Nam mới ra đời trong bối cảnh kết thúc Thế chiến II, mà người Mỹ đóng vai trò lớn trong việc đánh bại phát xít Nhật, thế lực thực dân trực tiếp cai trị Việt Nam khi ấy. Và việc đưa ngôn từ chính trị của Hợp Chúng quốc vào văn kiện của nước mình, từ Tuyên ngôn Độc lập đến Hiến pháp, là cách mà nhà cách mạng Việt Nam tranh thủ lực lượng quốc tế cho nền độc lập còn non yếu.

Tinh thần dân chủ và pháp quyền mà Hồ Chí Minh tiếp thu đó, vốn mang ý nghĩa thời đại và nhân loại, nên việc những câu chữ mang giá trị phổ quát của Hiếp pháp 1946 được giữ lại hoặc chỉnh lý và hiện diện ở những hiến pháp ngày càng đậm chất chủ nghĩa xã hội sau này, là điều chỉ vinh danh thêm chứ không gây hại cho nội dung xã hội chủ nghĩa, và càng không thể triệt tiêu sợi chỉ đỏ này, nên không nhất thiết phải bị “phủ định sạch trơn”.

Có thể nói, những yếu tố dân chủ và pháp quyền [xuất xứ tư bản chủ nghĩa] thể hiện trong hiến pháp Việt Nam [xã hội chủ nghĩa], dù cũng chính là nguyện vọng về phía người dân, thì về mặt tiến trình và trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, chỉ là vấn đề của bối cảnh lịch sử, “phương pháp cách mạng”, và kế thừa ngôn từ.

Trong khi đó, hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời sau Hiến pháp 1946 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến tám năm [1954], khi mà cuộc Chiến tranh lạnh đã định hình và Trung Quốc kết thúc cuộc nội chiến [1927-1950] chưa lâu, nên ngôn từ sắt đá kiểu “ai thắng ai” là không thể tránh khỏi. Ngoài ra, sự chi phối của văn hóa Khổng giáo vai trò của lãnh tụ họ Mao là những nhân tố không thể bỏ qua.

Trên tinh thần này, các hiến pháp sau [1975, 1978, 1982], trong bối cảnh của chủ nghĩa xã hội đặc trưng Trung Hoa – từ chủ nghĩa xã hội kiểu nông dân của Mao Trạch Đông đến cải tổ của Đặng Tiểu Bình, từ Cách mạng Văn hóa đến Thiên An Môn, từ tách khỏi khối xã hội chủ nghĩa thế giới đến “trỗi dậy hòa bình” – đất nước này luôn mang sự hãnh tiến của riêng mình, nên sự sắt lạnh của ngôn từ cũng là kết quả hợp lý.

Bên cạnh yếu tố bối cảnh và kế thừa, tính hiện thực của hiến pháp cũng là vấn đề không thể bỏ qua. Những hiến pháp thiếu xác thực đã được gọi bằng nhiều cách, như “hiến pháp hư cấu” [Fictive Constitution], “hiến pháp [trên] giấy” [Paper Constitution], hay “hiến pháp giả hiệu” [Façade Constitution], là khái niệm được nhắc đến nhiều hơn về mặt học thuật, do lý thuyết gia chính trị Giovanni Sartori [1924 –] đưa ra.

Ở các quốc gia toàn trị hoặc dân chủ nửa vời, bằng nhiều cách, ở nhiều cấp độ và trên nhiều phạm vi, các nội dung dân chủ trong hiến pháp có thể dễ dàng không được hiện thực hóa. Cả người Việt Nam và Trung Quốc đều không thiếu kinh nghiệm và trải nghiệm trong việc này.

Trình Ánh Hồng đã thận trọng một cách xác đáng, nhấn mạnh “về tiềm năng tương lai” khi cho rằng “thảm cỏ dân chủ” Việt Nam có phần nhỉnh hơn Trung Quốc. Nhưng vấn đề còn ở chỗ tiềm năng này có sẽ là hiện thực hay không, và hiện thực đó sẽ là phát triển tự thân – của hiến pháp và từ hiến pháp – hay phải qua con đường khác.

Như tác giả cũng đã thể hiện, không chỉ ở tiềm năng hiến pháp, mà trên tổng thể, cả tiềm năng văn hóa và tiềm năng xã hội, Việt Nam cũng có chút nhỉnh hơn Trung Quốc trong cải cách chính trị. Tuy nhiên, khi xét thực tế cụ thể, các tiềm năng này dường như cân bằng lại.

Chính thức, cải tổ tại Trung Quốc bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 3 khóa XI [1978], tại Việt Nam từ Đại hội VI [1986]. Trong văn bản, ngoài cách dùng từ và diễn đạt riêng của mỗi nước, đã có sự tương đồng trong nhận định về những khuyết tật mà từ đó cần cải cách chính trị[1].

Ba năm sau sự kiện Thiên An Môn, Đảng Cộng sản Trung Quốc họp Đại hội XIV [1992]. Tại đây, ngoài nền “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, họ cũng tuyên bố về nền “chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa”, xác định cải cách thể chế nhưng “không phải là thực hiện chế độ đa đảng và chế độ nghị viện của phương Tây”[2]. Tuy vậy, chế độ hợp tác nhiều đảng vẫn tiếp tục được duy trì, theo phương châm được nêu lên tại Đại hội XV [1997]: “chung sống lâu dài, giám sát lẫn nhau, chân thành với nhau, vinh cùng hưởng, nhục cùng chịu”[3].

Đến thời kỳ của Đại hội XVII [2007], Sách trắng về Hệ thống chính đảng tại Trung Quốc [White Paper on China’s Political Party System] đã lần đầu tiên được công bố [15/11/2007][4], trong đó có những phần nhấn mạnh đến quan hệ của hệ thống hợp tác đa đảng với việc xây dựng quyền lực nhà nước và hiện đại hóa.

Như vậy, sau hơn 30 cải tổ, các đảng nhỏ tại Trung Quốc, dù không thực chất chăng nữa, thì cũng không những không mất đi mà còn được xác quyết cả về lý luận lẫn thực tiễn.

Trong khi đó, tại Việt Nam, chưa đầy hai năm đổi mới, dạng “đa nguyên” hình thức nhất đã bị triệt tiêu. Vào lúc mà Đông Âu chỉ mới bắt đầu có những biến động, Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ đều tuyên bố “kết thúc sứ mạng lịch sử” và giải thể [lần lượt, 07/1988 và 10/1988].

Hệ thống đa đảng tại Trung Quốc được cho là do truyền thống chung sống và hợp tác lâu dài của Đảng Cộng sản với các đảng khác. Nhưng phải chăng tại Việt Nam không có một truyền thống tương tự? Căn cứ vào chính lịch sử cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo và viết nên, câu trả lời là “không”.

Sự khác biệt về hệ thống đảng phái có thể còn được biện giải bằng điều kiện cụ thể của mỗi nước, nhưng kỳ thực, tận cùng thì vấn đề chỉ là “phương pháp cách mạng” mà việc nhận thức, đề ra và thực hiện phần nhiều xuất phát từ chủ thể.

Cũng với vai trò ấy của chủ thể mà sau vụ Thiên An Môn, sau sự sụp đổ Đông Âu, và trước [cả] khi Liên Xô tan rã [12/1991], tại Hội nghị Trung ương 8 khoá VI [03/1990], Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra thuật từ ổn định chính trị. Thực tế, ý niệm này giữ vai trò chỉ đạo trong toàn bộ tiến trình cải cách chính trị – xã hội ở Việt Nam, nhưng được hiểu và vận dụng theo hướng bảo thủ.

Dù sao, sau hội nghị ấy, quá trình vẫn tiếp tục, đi đến chỗ nhìn nhận nhà nước pháp quyền, cả ở văn kiện Đảng[5] và hiến pháp[6]. Việc đó như một động lực mới tiếp tục thúc đẩy cải cách. Hội nghị Trung ương 4 khóa X [01/2007] đã đề ra những chủ trương lớn nhằm tách bạch hơn giữa Đảng và nhà nước, qua việc giảm bộ máy trung ương Đảng trong lĩnh vực kinh tế và nội chính, đồng thời cải tổ quân đội trong hoạt động kinh tế.

Tưởng chừng cải tổ sẽ tăng tốc, nhưng sự khập khễnh quá lâu giữa cải cách chính trị với cải cách kinh tế đã đến lúc làm biến dạng môi trường cải tổ. Kiểu chính trị quyền-tiền-nhóm, được sự hậu thuẫn của bạo lực và biện minh của giáo điều, đã bóp méo và cản trở tiến trình đổi mới. Từ sau hội nghị vừa nói, khó mà ghi nhận bước đi nào tạo thay đổi thực chất. Hai Hội nghị Trung ương 4 [12/2011] và 5 [05/2012] vừa rồi của khóa XI, dù nhận thức được mức độ nghiêm trọng của những vấn đề nội tại, nhưng chủ yếu vẫn lặp lại những giải pháp và cơ chế cũ chứ không đưa ra được cái hữu hiệu để thay đổi.

Nếu nhận định “Kể từ năm 2006, cải tổ chính trị ở Việt Nam đã được thực hiện theo cách tương tự ở Trung Quốc trong nửa cuối thập niên 1980 trước khi tàn sát Thiên An Môn năm 1989 làm mọi sự chựng lại” có hàm ý rằng từ thời điểm của Đại hội X [04/2006], cải cách ở Việt Nam càng được đẩy mạnh, thì e rằng không đủ cơ sở. Những nỗ lực tự phát của các lực lượng cấp tiến phi định hình hay những biểu hiện tích cực đơn lẻ trong sinh hoạt chính trị, dù không thể không có vai trò nhưng cũng không thể thay thế cho những thay đổi tự giác, có hệ thống, cả trên lý luậnthực tế, của những chủ thể thực quyền đã định hình.

Về mặt pháp quyền, ở những nơi thiếu vắng cơ chế thực thi và phúc quyết, thì rốt lại, văn bản hay phát biểu cũng chỉ là những điều được viết sẵn cho người cầm quyền, nên giữa ngôn từ với ý chí và việc thực hiện là một khoảng cách không thể vượt qua hoặc không muốn vượt qua về phía chủ thể.

Chẳng hạn, Việt Nam và Trung Quốc, dù có lý luận và hiến pháp “dân chủ” hơn Miến Điện, cũng không tạo được bứt phá như nước này. Thực tế của Miến Điện cho thấy mọi biện minh về lựa chọn lịch sử, bối cảnh đặc thù, ổn định xã hội… xem ra đều phá sản [và nực cười], nhường chỗ cho nhân tố chủ thể.

Bởi nhân tố đó mà Trung Quốc đã cải tổ từ năm 1978 còn Việt Nam phải đến năm 1986, trong khi xuất phát lý luận và mô hình, cũng như thời gian trải nghiệm chủ nghĩa xã hội của hai nước là gần như nhau. Hơn thế, từ năm 1975, Việt Nam đã có điều kiện khách quan về chính trị, kinh tế, xã hội thuận tiện hơn Trung Quốc trong việc thay đổi. Chung quy, cũng từ nhận thức ý chí của chủ thể quyền lực, trên nền văn hóa truyền thống.

Cái văn hóa đa dạng tư tưởng nhưng cũng lắm tranh đoạt và xưng hùng xưng bá của phương Bắc đã sinh ra được cái gọi là Tư tưởng Mao Trạch Đông rồi Lý luận Đặng Tiểu Bình, tự giác từ chủ thể nó mang tên. Trong khi ở Việt Nam, phải đến cuối những năm 1980, vấn đề Tư tưởng Hồ Chí Minh mới được đặt ra, nhằm tạo một nền tảng tư tưởng bổ sung, trước cuộc khủng hoảng lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội.

Phương Bắc có thể sinh ra Đặng Tiểu Bình: nhiều lần bị “trù dập” nặng nề nhưng kiên trì và kiên quyết thay đổi. Phương Nam, đến nay, chỉ có thể sinh ra Nguyễn Văn Linh: không có thách thức nội bộ nhưng lại nhất quyết nhường bước khi đổi mới bắt đầu chẳng bao lâu. Phương Bắc có thể sinh ra Triệu Tử Dương hay Ôn Gia Bảo: dám có hành động hay quan điểm ngược chiều ngay khi tại vị. Phương Nam, hiện giờ, chỉ có thể sinh ra Võ Văn Kiệt hay Nguyễn Văn An: lên tiếng mạnh hơn về chuyển đổi chính trị khi đã về hưu[7].

Trung Quốc dám nhanh chóng thoát khỏi cái bóng của Liên Xô, tự mình xưng hùng. Việt Nam thì chỉ khi thực thể của cái bóng thể chế sắp đổ mới [và lại] tìm đến một cái bóng mới. Trung Quốc tính toán và triển khai chiến lược quốc tế từ rất sớm. Việt Nam thì đến khi tình thế cấp bách mới nhận ra vấn đề.

Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể dung chấp hình thức đối với những đảng khác, Đảng Cộng sản Việt Nam thì tuyệt đối không. Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể cứng rắn nhất trong nội bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam thì không [hoặc chưa]. Đảng Cộng sản Trung Quốc dám thua dân, Đảng Cộng sản Việt Nam thì không [hoặc chưa][8].

Cải tổ tại Trung Quốc có thể tạo nên “sự bừng nở trí thức”, cải cách tại Việt Nam lại khiến trí thức phải tự thoái lui[9].

Những sự thể đó không phải là ngẫu nhiên, mà tương quan qua lại với những điều ít nhiều có tính đặc trưng của chủ thể thực quyền ở hai nơi. Trung Quốc cải cách với tư duy đi trước và tiến công, Việt Nam cải cách bằng tư tưởng ứng phó và phòng thủ. Người Trung Quốc nhạy với thay đổi từ vấn đề khách quan, người Việt Nam nhạy với nguy cơ từ thái độ chủ quan. Đảng Cộng sản ở phương Bắc có cả tự tin và tự đại, Đảng Cộng sản ở phương Nam thiếu cái trước mà thừa cái sau…

Bởi thế, cho dù bất kỳ yếu tố đột biến nào cũng có thể tạo thay đổi bước ngoặt ở nước này hay nước kia, nhưng khi xét vấn đề rộng hơn tiến trình hiến pháp, có thể sẽ thấy tiềm năng của cải tổ chính trị nghiêng hơn một chút về phía Bắc.

Thật ra, cả ý kiến của tôi và nhận định của Trình Ánh Hồng đều không ra khỏi quỹ đạo “ai ngưỡng mộ ai” mà trí thức mỗi nước nhìn sang bên kia, với mong muốn thấy tiến bộ bên đấy để thúc đẩy tiến bộ bên mình.

Nhưng với giới bảo thủ, có thể ngược lại, thấy được cái chậm trễ bên kia là cơ hội để kìm hãm cái tiến bước bên này. Ở những chủ thể thiếu tự tin mà tâm thế chất đầy những diễn biến nguy cơ, sự “vận dụng” đó có nhiều khả năng hơn.

Gần sáu năm trước, khi những cải tổ tại Trung Quốc vẫn là niềm khích lệ nóng hổi để giới cấp tiến Việt Nam nhân đó tiến bước[10], chắc hẳn cả phía bảo thủ lẫn cấp tiến, theo hướng riêng của mỗi bên, đều cảm thấy “lạnh lưng” khi có thông tin nói rằng cải cách chính trị tại nước mình đi nhanh hơn Trung Quốc, qua cuộc phỏng vấn của Trình Ánh Hồng dành cho BBC Việt ngữ.

Ông cho hay rằng vào thời gian đó, nhiều trí thức Hoa lục đã kêu gọi học tập Việt Nam mở rộng dân chủ, rằng Hồ Cẩm Đào không hài lòng trước những chuyển biến ở phương Nam. Vị giáo sư này không nhân đấy cho biết rằng Trung Quốc có một hệ thống “hợp tác đa đảng”, điều mà đại đa số người đọc và bộ máy ở Việt Nam không biết đến, mà tiết lộ rằng Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam phát triển theo mô hình Singapore, tức cho tồn tại những đảng đối lập cực yếu trước một đảng cầm quyền cực mạnh.

Vậy mà thời gian qua, trong toan tính của Trung Quốc, ngay cả cái dự phóng tối thiểu và kiềm tỏa đó cho Việt Nam cũng không hề có bước đi nào. Ngược lại, những giật lùi lại thấy rõ: việc luật hóa hóa các định chế dân chủ liên tục bị đình hoãn, đạo đức chính trị và đạo đức công vụ thoái hóa, bạo lực lên ngôi, báo chí giảm dần uy lực, trí thức thì lui về với sự phản biện tự phát…

Phải chăng những người bảo thủ đã dùng chiếc phanh Trung Quốc để phanh đà cải cách Việt Nam, với cái cớ đã đi quá nhanh? Điều này, cộng hưởng với những tố chất nội tại của nền chính trị và chủ thể thực quyền, là một thảm họa.

Người nước ngoài nhìn vào Việt Nam ở một khía cạnh nào đó, có thể lạc quan trước những ngôn từ và diễn biến hình thức, nhưng chính chúng ta thì cần nhìn vấn đề thấu đáo hơn, để qua đó ghi nhận đúng với thực tế và thực chất, tránh lạc quan đến ảo tưởng, mà cũng đừng bi quan đến bế tắc.

Tháng Năm 2012

© 2012 pro&contra

[1] Xem: Nguyễn Thế Tăng [chủ biên]: Trung Quốc cải cách và mở cửa [1978-1998], Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 113-117; Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, 1987, Hà Nội, tr. 109-123.

[2] Nguyễn Thế Tăng: Sđd, tr. 131.

[3] Nguyễn Thế Tăng: Sđd, tr. 135. Cũng xem: Doãn Trung Khanh: Chế độ chính trị Trung Quốc [Nguyễn Mạnh Sơn dịch], Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. HCM, 2012, tr. 115-122.

[4] Xem bài giới thiệu và toàn văn [bản tiếng Anh] tại website của chính quyền trung ương Trung Quốc: //www.gov.cn/english/2007-11/15/content_806309.htm

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 56.

[6] Trần Gia Thắng [biên tập]: Hiến pháp Việt Nam và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2002, tr. 177.

[7] Trường hợp Trần Xuân Bách không nằm trong tốp cao nhất.

[8] Sự việc tại Ô Khảm, rõ ràng đã có hành động “chống chính quyền nhân dân”, “chống người thi hành công vụ” và “gây rối trật tự công cộng” ở quy mô lớn, có tổ chức, nhưng những người “chống” đó đã vô can. Còn ở Tiên Lãng, nhiều khả năng Đoàn Văn Vươn và những người liên quan khó mà thoát tội trong bối cảnh cần “giữ vững kỉ cương, phép nước”.

[9] Việc tự giải thể của Viện Nghiên cứu Phát triển IDS [09/2009] sau chỉ hơn hai năm thành lập, là lựa chọn không thể khác được.

[10] Xem: Kiệt Minh, Trương Tây Ninh, Trương Thao, Khúc Khắc Mẫn: Mười hai mối quan hệ lớn: Con đường cất cánh của Trung Quốc [nhóm dịch Trần Xuân Nhiễm…], Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Thế Tăng, Sđd; Bộ biên tập Tạp chí Cầu Thị: Cái gốc để xây dựng Đảng, nền tảng để cầm quyền, ngọn nguồn của sức mạnh [nhóm dịch Lê Toan…], Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; Đỗ Tiến Sâm [chủ biên]: Cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc [1978 – 2003], Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003.

Categories: Chính trị Việt Nam, Trung Quốc

Tags: Hiến pháp 1946, Hồ Chí Minh, Trình Ánh Hồng, Trung Quốc

Video liên quan

Chủ Đề