So sánh chiết khấu với cho thuê tài chính

Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhLỜI MỞ ĐẦUNgân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như một doanh nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay lại. So với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hoá của Ngân hàng Thương mại là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. Nghiệp vụ cấp tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu mang lại lợi nhuận cho NHTM ở nước ta hiện nay, nguồn lợi nhuận mang lại từ nghiệp vụ này chiếm từ 60%-80% tổng số lợi nhuận của một ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều người vẫn còn hiểu nhầm rằng nghiệp vụ cấp tín dụng chính là nghiệp vụ cho vay, nhưng hiểu như vậy là chưa thực sự đầy đủ, bởi lẽ nghiệp vụ cấp tín dụng bao gồm: nghiệp vụ cho vay, bão lãnh, bao thanh toán, phát hành L/C, chiết khấu, cho thuê tài chính, và các loại hình khác.Chính vì tầm quan trọng của nghiệp vụ cấp tín dụng và mong muốn giúp người đọc hiểu rõ hơn về nghiệp vụ này, nhóm đã thực hiện đề tài: “Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh” nhằm cung cấp sự hiểu biết tốt hơn về các nghiệp vụ này. Đồng thời có cái nhìn tổng quan về thực trạng phát triển của các ngiệp vụ này tại Việt Nam, từ đó đề xuấ một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của các nghiệp vụ này.Ngân Hàng Đêm 4 – K21 1Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh1.1. NGHIỆP VỤ CHIẾT KHẤU 1.1.1. Tổng quan về nghiệp vụ chiết khấu a. Khái niệm: Chiết khấu là nghiệp vụ trong đó NHTM sẽ mua lại GTCG chưa đến hạn thanh toán với số tiền bằng mệnh giá GTCG trừ đi phần lợi nhuận và các chi phí mà NHTM được hưởng.Chiết khấu được gọi là hoạt động cấp tín dụng gián tiếp bởi vì người trả nợ khác với người đi vay.Trong nghiệp vụ chiết khấu NHTM sẽ trả trước cho các GTCG chưa đến hạn thanh toán với điều kiện người sở hữu GTCG [người xin chiết khấu] phải làm thủ tục chuyển nhượng GTCG cho NHTM.Khi GTCG đến hạn thanh toán, NHTM sẽ đòi tiền từ người phát hành GTCG đó.Sơ đồ nghiệp vụ:Bước 1: Người thụ hưởng [người bán hàng hoặc người mua GTCG] tiến hành giao hàng trả chậm [trong trường hợp mua bán chịu hàng hóa] hoặc chuyển tiền mua GTCG [trong trường hợp mua các công cụ nợ trên thị trường] cho người phát hành. Nếu trong trường hợp mua bán trả chậm thì người phát hành chính là người mua hàng. Nếu trong trường hợp mua các công cụ nợ trên thị trường thì người phát hành là người bán các công cụ nợ.Bước 2: người phát hành chuyển giao thương phiếu/GTCG cho người thụ hưởng. thương phiếu hoặc GTCG trong trường hợp này là một cam kết thanh toán vô điều kiện của người phát hành đối với người thụ hưởng về việc thanh toán một số tiền được ghi trên thương phiếu và GTCG [kể cả các khoản tiền lãi nếu có] tại một thời điểm nhất định trong tương lai.Bước 3: như đã phân tích ở bước 2, người thụ hưởng sẽ phải chờ một khoản thời gian nhất định mới có thể nhận được số tiền thanh toán từ người phát hành. Do đó, để đáp ứng các nhu cầu về tiền mặt, người thụ hưởng thương phiếu/GTCG sẽ đem thương phiếu/GTCG đến NHTM để đề nghị chiết khấu.Bước 4: sau khi thẩm định mức độ rủi ro của thương phiếu/GTCG, nếu đồng ý chiết khấu, các NHTM sẽ thanh toán cho khách hàng đề nghị chiết khấu một sốtiền sau khi đã trừ đi phần tiền lãi chiết khấu và các loại phí liên quan.Bước 5: Sau khi chiết khấu cho người thụ hưởng thương phiếu/GTCG, NHTM sẽ nắm quyền sở hữu các giấy tờ này cho đến ngày đáo hạn để đòi tiền người phát hành.Ngân Hàng Đêm 4 – K21 2Người phát hànhNgười thụ hưởngNGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI[1] Hàng hóa, dịch vụ/Tiền mua GTGT[2] Thương phiếu/ GTGT[5] Đòi tiền[3] Chiết khấu[6] Thanh toán tiền[4] Số tiền nhận đượcPhân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhBước 6: Người phát hành trả tiền cho NHTM số tiền ghi trên thương phiếu hoặc mệnh giá và các khoản lợi tức phát sinh [nếu có] của GTCGb. Đặc điểm Đối tượng chiết khấuĐối tượng chiết khấu là GTCG không sinh lời và GTCG sinh lời, cụ thể:- GTCG không sinh lời là loại GTCG không mang lại cho người sở hữu nó một mức lợi tức nào. GTCG không sinh lời bao gồm thương phiếu và hối phiếu cơ sở phát hành các chứng từ này xuất phát từ các giao dịch thương mại trong nước và nước ngoài.- GTCG sinh lời: là loại GTCG mà khi sở hữu nó người chủ sở hữu sẽ nhận được một hoặc nhiều khoản lợi tức trong thời gian lưu hành của GTCG của GTCG. GTCG sinh lời bao gồm: trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi … cơ sở phát hành chứng từ này là dựa vào các giao dịch tài chính, thực hiện chu chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn. Điều kiện chiết khấu- Đối với khách hàng đề nghị chiết khấu: Vì chiếc khấu là một hình thức cấp tín dụng, do đó điều kiện đối với khách hàng đề nghị chiết khấu cũng tương tự như điều kiện đối với khách hàng đề nghị cấp tín dụng.- Đối với GTCG được chiết khấu: để được ngân hàng chấp nhận chiết khấu, GTCG chiết khấu phải thỏa mãn các điều kiện sau:• Thuộc sở hữu hợp pháp của khách hàng đề nghị chiết khấu• GTCG đem chiết khấu phải chưa đến hạn thanh toán• Được phép giao dịch• Được thanh toán [vốn và lãi] theo quy định của tổ chức phát hànhc. Phân loại chiết khấu- Căn cứ theo tính chất rủi ro, nghiệp vụ chiết khấu được chia làm 2 loại: chiết khấu có truy đòi và chiết khấu miễn truy đòi.- Căn cứ theo thời hạn, nghiệp vụ chiết khấu được chia làm 2 loại: chiết khấu không hoàn lại và chiết khấu có hoàn lại [chiết khấu có kỳ hạn]d. Ý nghĩa của nghiệp vụ chiết khấu- Đối với khách hàng: thông qua nghiệp vụ chiết khấu mà khách hàng [doanh nghiệp và cá nhân] có ngay một lượng tiền cần thiết để phục vụ cho nhu cầu của sản xuất kinh doanh, hoặc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng.- Đối với NHTM:• Thông qua nghiệp vụ chiết khấu các NHTM thực hiện được nghiệp vụ cấp tín dụng cho khách hàng và tạo ra thu nhập cho ngân hàng gồm lãi chiết khấu và phí chiết khấu.• Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, từ đó đa dạng hóa nguồn thu nhập của ngân hàng.Ngân Hàng Đêm 4 – K21 3Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh• Linh hoạt trong việc quản trị thanh khoản tại NHTM: khi ngân hàng phát sinh nhu cầu thanh khoản thì ngân hàng có thể sử dụng những GTCG đã chiết khấu cho khách hàng để tái chiết khấu hoặc vay cầm cố GTCG tại NHNN và các NHTM khác một cách nhanh chóng.1.1.2. Thực trạng phát triển của nghiệp vụ chiết khấu tại Việt Nam a. Hạn chế:- Về vĩ mô, quy chế về chiết khấu, tái chiết khấu hiện hành không có một điều khoản nào đề cập đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng chiết khấu, tái chiết khấu GTCG. Sự thiếu vắng quy định về vấn đề này làm giảm tính chặt chẽ trong việc tham gia hoạt động chiết khấu GTCG, gây khó khăn trong việc xác định đâu là hành vi vi phạm và chế tài, đồng thời chưa quy định chế tài xử lý khi có hành vi vi phạm xảy ra. - Luật các tổ chức tín dụng đã cho phép các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Nhưng hoạt động chiết khấu thương phiếu vẫn chưa trở thành kênh cấp tín dụng của các tổ chức này.- Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh tín dụng ngân hàng, còn xuất hiện và phát triển hình thức tín dụng thương mại. Để giúp tín dụng thương mại thực hiện được, đã xuất hiện những công cụ giúp doanh nghiệp đòi nợ hoặc nhận nợ, phục vụ cho các doanh nghiệp thanh toán, đòi tiền lẫn nhau. Những công cụ này gồm có hối phiếu đòi nợ [bill of exchange], hối phiếu nhận nợ [promisory note], séc [cheque],… Trên thực tế, quan hệ tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp, tiểu thương đã tồn tại như một thực tế khách quan trong nền kinh tế Việt Nam. Trong thanh toán nội địa, đặc biệt là ở các chợ đầu mối, việc mua bán chịu đã xuất hiện những “giấy nhận nợ” hay “giấy đòi nợ” do người bán hàng hoặc người thanh toán phát hành để mua-bán chịu lẫn nhau nhưng chưa được Pháp lệnh điều chỉnh. Bộ luật Dân sự và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cũng chỉ có một số nội dung điều chỉnh đối với thương phiếu; Luật Thương mại [sửa đổi] đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 đã bỏ chương về thương phiếu. Vì vậy, nhu cầu hình thành một hệ thống các quy định của pháp luật để bảo vệ có hiệu quả quyền của chủ nợ đã trở nên bức xúc. Mặt khác, trong điều kiện hầu hết các doanh nghiệp nước ta có quy mô sản xuất nhỏ bé, thiếu vốn kinh doanh, việc đưa thương phiếu vào sử dụng là cần thiết nhằm tạo thêm kênh huy động vốn, tiệp cận tín dụng thương mại cho các doanh nghiệp. Điều này cho thấy việc thể chế hoá các quan hệ tín dụng thương mại bằng các quy định của Luật các công cụ chuyển nhượng nói chung và pháp luật về thương phiếu nói riêng là một đòi hỏi tất yếu khách quan của nền kinh tế.- Về vi mô, tâm lý e ngại của khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ chiết khấu GTCG: thời gian xử lý lâu, thủ tục rườm rà và nhiêu khê. Vì vậy đã gây ra tâm lý e ngại của không ít khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ này. b. Nguyên nhân- Bất cập của quy định pháp luật về chiết khấu GTCG. Thực tế này đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện các quy định pháp luật về các công cụ chuyển nhượng, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, chế tài xử phạt để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng và tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ.- Tâm lý e ngại của khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ chiết khấu GTCG xuất phát chủ yếu từ chất lượng nghiệp vụ chiết khấu GTCG chưa tốt tại các TCTD, điển hình như : Ngân Hàng Đêm 4 – K21 4Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh• Quy trình chiết khấu rườm rà mất nhiều thời gian trong việc xác minh và phong tỏa các GTCG, đặc biệt là chiết khấu GTCG do TCTD khác phát hành, hay chiết khấu GTCG do NHNN phát hành [trái phiếu kho bạc,…]; • Hệ thống thông tin chưa phát triển đồng bộ nên không ít các trường hợp chiết khấu GTCG do cùng 1 TCTD phát hành nhưng khác chi nhánh thì cũng phải mất không ít thời gian để chiết khấu GTCG cho khách hàng; • Đặc biệt trong thời gian gần đây, khi xem báo, đài thì chúng ta sẽ thấy xuất hiện không ít các rủi ro từ việc chiết khấu GTCG mà nguyên nhân chủ yếu là do con người. Con người ở đây xuất phát từ nghiệp vụ và đạo đức, có thể do nghiệp vụ của nhân viên thực hiện không vững gây ra rủi ro và thất thoát cho TCTD, có thể do đạo đức của nhân viên không tốt, cố ý chiếm đoạt tài sản thông qua việc tự ý mượn GTCG của khách hàng chiết khấu hưởng lợi cá nhân…1.1.3. Giải pháp phát triển nghiệp vụ chiết khấu tại Việt Nam a. Nhóm giải pháp vĩ mô - Thứ nhất, hoàn thiện các quy định pháp luật về các công cụ chuyển nhượng để có thể đưa đầy đủ các GTCG theo định nghĩa [thương phiếu, tín phiếu…] vào hoạt động thực tế.- Thứ hai, quy chế về chiết khấu, tái chiết khấu hiện hành không có một điều khoản nào đề cập đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng chiết khấu, tái chiết khấu GTCG. Sự thiếu vắng quy định về vấn đề này làm giảm tính chặt chẽ trong việc tham gia hoạt động chiết khấu GTCG, gây khó khăn trong việc xác định đâu là hành vi vi phạm và chế tài khi có hành vi vi phạm xảy ra. Vì vậy, cần bổ sung vào quy chế quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia để giúp họ biết được phạm vi giới hạn cụ thể những gì được làm, được pháp luật bảo vệ cũng như những gì bị cấm hoặc hạn chế.- Thứ ba, theo phương thức chiết khấu, tái chiết khấu có thời hạn, khách hàng có bổn phận phải thực hiện cam kết mua lại GTCG đã chiết khấu, tái chiết khấu. Tuy nhiên, lại chưa có quy định, chế tài xử phạt nào được ban hành về việc khách hàng không có khả năng thực hiện việc mua lại. Điều này phần nào gây ảnh hưởng tới tình hình hoạt động của các TCTD. Do đó, cần phải bổ sung những quy định cụ thể mức phạt trong trường hợp khách hàng không thực hiện nghĩa vụ mua lại của mình.- Thứ tư, vẫn còn mập mờ trong quy định về quyền sở hữu GTCG trong chiết khấu, tái chiết khấu có thời hạn. Theo như điểm b khoản 2 điều 8 Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu GTCG của TCTD đối với khách hàng, TCTD chỉ có quyền sở hữu hợp pháp và được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ GTCG khi hết thời hạn cam kết mua lại mà khách hàng không thực hiện nghĩa vụ mua lại GTCG đó. Trong khi đó, theo điều 462 Bộ Luật Dân sự về trường hợp bán và có thỏa thuận mua lại, thì kể từ giao dịch được thực hiện cho trong thời hạn chuộc lại, bên mua vẫn có quyền sở hữu tài sản nhưng bị hạn chế bởi quyền định đoạt. Mâu thuẫn giữa hai pháp luật quy định trên dễ dẫn đến việc khó phân xử khi xảy ra tranh chấp, kiện tụng. Nhìn chung lại, Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý quy định về nghiệp vụ chiết khấu GTCG để nghiệp vụ này phát triển hơn nữa.Ngân Hàng Đêm 4 – K21 5Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhb. Nhóm giải pháp vi mô Nâng cao chất lượng nghiệp vụ chiết khấu GTCG tại các TCTD. Chất lượng nghiệp vụ của một TCTD được quyết định bởi nhiều yếu tố như quy trình, con người Do vậy để nâng cao chất lượng nghiệp vụ này, thì bản thân các TCTD cần phải:- Cải tiến quy trình, loại bỏ những thủ tục không cần thiết để đảm bảo nghiệp vụ thực hiện nhanh gọn đơn giản.- Đầu tư và nâng cao mức độ hiện đại hóa công nghệ tại các TCTD.- Đào tạo, nâng cao nghiệp vụ và đạo đức của cán bộ nhân viên.1.2. NGHIỆP VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1.2.1. Tổng quan về nghiệp vụ cho thuê tài chính a. Khái niệmTại Việt Nam, theo Nghị định số 16/2001/NĐ- CP ngày 02/05/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thì “cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận”. b. Đặc điểm  Một số đặc điểm cơ bản:Thứ nhất, cho thuê tài chính có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Quyền sở hữu tài sản cho thuê thuộc về bên cho thuê trong suốt thời hạn cho thuê. Đây là cơ sở để bên cho thuê có thể định đoạt tài sản trong suốt thời gian cho thuê cũng như sau khi kết thúc hợp đồng, giúp giảm thiểu rủi ro cho bên cho thuê. Còn quyền sử dụng lại thuộc về bên thuê.Thứ hai, thời hạn cho thuê là dài [trung và dài hạn], nghĩa là thời hạn cho thuê bằng hoặc lớn hơn một nửa đời sống hữu ích của tài sản cho thuê.Thứ ba, quyền lựa chọn tài sản thuộc về bên thuê, nghĩa là mọi vấn đề về tài sản cho thuê từ kiểu dáng, nhãn hiệu, chủng loại, giá cả…đều do bên thuê thoả thuận, chọn lựa với bên cung ứng.Theo nghị định số 65/2005/NĐ- CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ, một giao dịch cho thuê tài chính phải thoả mãn một trong những điều kiện sau:- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê.Ngân Hàng Đêm 4 – K21 6Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Tài sản cho thuê tài chínhTrên thế giới, các thiết bị, tài sản thường được sử dụng trong các giao dịch cho thuê tài chính rất đa dạng và có sự phát triển không ngừng, nhưng có thể chia thành 2 loại chính là: - Động sản: là các tài sản như máy móc, thiết bị văn phòng, xe ô tô…có thể di chuyển vị trí, có giá trị không lớn và đời sống hữu ích ngắn.- Bất động sản: là các tài sản như nhà cửa, văn phòng làm việc, phân xưởng sản xuất… không thể di chuyển, có giá trị lớn và đời sống hữu ích dài.- Tại Việt Nam, tài sản cho thuê tài chính chỉ mới là động sản còn bất động sản chưa được phép dùng trong cho thuê tài chính. Các chủ thể tham gia hoạt động cho thuê tài chính- Bên cho thuê : là các công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Các công ty cho thuê tài chính này có thể là:• Công ty cho thuê tài chính Nhà nước.• Công ty cho thuê tài chính cổ phần.• Công ty cho thuê tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng.• Công ty cho thuê tài chính liên doanh.• Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài.Bên cho thuê có quyền yêu cầu bên thuê cung cấp các báo cáo quý, quyết toán tài chính năm, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề có liên quan đến tài sản cho thuê cũng như được quyền gắn ký hiệu sở hữu trên tài sản cho thuê trong suốt thời hạn cho thuê, kiểm tra việc quản lý và sử dụng tài sản cho thuê. Đồng thời, bên cho thuê có quyền chuyển nhượng các quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng cho thuê tài chính cho một công ty cho thuê tài chính khác. Bên cho thuê có nghĩa vụ ký hợp đồng mua tài sản với bên cung ứng theo các điều kiện đã được thoả thuận giữa bên thuê và bên cung ứng mà không phải chịu trách nhiệm về việc tài sản cho thuê không được giao hoặc giao không đúng với các điều kiện đã thoả thuận. Sau khi mua tài sản, bên cho thuê có nghĩa vụ đăng ký quyền sở hữu, làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản cho thuê cũng như đăng ký giao dịch đảm bảo theo quy định của pháp luật.- Bên thuê : là các tổ chức hoạt động tại Việt Nam, cá nhân sinh sống, làm việc tại Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài sản thuê cho mục đích hoạt động của mình, bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, các tổ chức khác thuộc đối tượng vay vốn của các tổ chức tín dụng.Bên thuê có quyền lựa chọn bên cung ứng tài sản thuê và tất cả các yếu tố liên quan đến tài sản thuê như đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, cách thức và thời hạn giao nhận, lắp đặt và bảo hành tài sản đó. Bên thuê có quyền nhận và sử dụng tài sản thuê trong suốt thời gian hợp đồng. Đổi lại, bên thuê có nghĩa vụ thanh toán tiền thuê đúng kỳ hạn và các chi phí khác có liên quan như lệ phí đăng ký quyền sở hữu, bảo hiểm…đối với tài sản thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê đúng mục đích đã thoả thuận và chịu trách nhiệm về mất mát, hư hỏng tài sản cũng như mọi hậu quả do việc sử dụng tài sản thuê gây ra Ngân Hàng Đêm 4 – K21 7Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhđối với bên thứ ba. Đặc biệt, bên thuê không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho tổ chức, cá nhân khác mà không được bên cho thuê đồng ý bằng văn bản, không được dùng tài sản thuê để thế chấp, cầm cố hoặc để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác. - Bên cung ứng: Bên cung ứng là các công ty, các hãng sản xuất hoặc kinh doanh những tài sản thiết bị mà bên thuê muốn thuê. Bên cung ứng thực hiện việc chuyển giao, lắp đặt máy móc thiết bị…theo hợp đồng mua bán, hướng dẫn kỹ thuật vận hành, bảo trì, bảo dưỡng tài sản thiết bị…cho bên thuê. Bên cung ứng là do bên thuê tự do lựa chọn, có thể là trong nước hoặc nước ngoài.c. Phân loại cho thuê tài chính Cho thuê tài chính thuần - Cho thuê tài chính thuần là phương thức cho thuê tài chính trong đó các loại chi phí bảo trì, vận hành, phí bảo hiểm…và mọi rủi ro thường do bên thuê chịu; tổng số tiền bên thuê trả cho bên cho thuê trong suốt thời gian thuê đủ để bù đắp lại toàn bộ giá mua của tài sản. Vì khoảng tiền này [bao gồm cả gốc và lãi do bên thuê trả theo định kỳ] được coi là trị giá thuần của tài sản nên gọi là cho thuê tài chính thuần. Đây là hình thức cho thuê phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay.- Sau khi kết thúc hợp đồng thuê, bên cho thuê có thể nhận lại tài sản thuê hoặc bán lại cho bên thuê. Hiện nay, ở Việt Nam đa số các công ty cho thuê tài chính đều bán lại tài sản cho thuê cho bên thuê sau khi kết thúc hợp đồng. Giá bán lại sẽ được ghi rõ trong hợp đồng cho thuê tài chính.- Hợp đồng cho thuê tài chính thuần gồm 3 bên: bên cho thuê, bên thuê, bên cung ứng với quan hệ có thể biểu diễn như sau:Hình 2.1 Quy trình cho thuê tài chính thuầnĐặc biệt, trường hợp bên cho thuê đồng thời đóng luôn vai trò của bên cung ứng thì được gọi là cho thuê tài chính thuần hai bên. Mua và cho thuê lại- Theo thông tư 07/2006 của NHNN, mua và cho thuê lại là việc công ty cho thuê tài chính mua tài sản thuộc sở hữu của bên thuê và cho bên thuê thuê lại chính tài sản đó theo hình thức cho thuê tài chính để bên thuê tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động của mình. Trong giao dịch mua và cho thuê lại, bên thuê đồng thời là bên cung ứng tài sản cho thuê.Ngân Hàng Đêm 4 – K21 8Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh- Với hình thức này, bên thuê có thể giải quyết nhu cầu vốn lưu động và vẫn duy trì sử dụng tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều đáng chú ý là những tài sản sử dụng trong giao dịch này phải thuộc sở hữu hợp pháp của bên thuê, không là tài sản đang được sử dụng để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ khác, không có tranh chấp liên quan đến tài sản và quan trọng là tài sản đang hoạt động bình thường. Cho thuê giáp lưngCho thuê giáp lưng là phương thức cho thuê tài chính trong đó được sự thoả thuận của bên cho thuê, bên thuê thứ nhất cho bên thuê thứ hai thuê lại tài sản mà bên thuê thứ nhất đã thuê từ bên cho thuê. Nguyên nhân do bên thuê thứ nhất khi thực hiện được một phần hợp đồng cho thuê tài chính thì không còn nhu cầu đối với tài sản đã thuê hoặc vì một lý do nào đó nên phải tìm bên thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng. Việc này giúp bên thuê thứ nhất không phải trả tiền thuê còn lại của hợp đồng nhưng phải được sự đồng ý của bên cho thuê đối với bên thuê thứ hai.Kể từ thời điểm hợp đồng thuê lại được ký kết, mọi quyền lợi và nghĩa vụ cùng tài sản được chuyển giao từ bên thuê thứ nhất sang bên thuê thứ hai. Tuy nhiên, bên thuê thứ nhất vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những rủi ro và thiệt hại liên quan đến tài sản thuê. Cho thuê hợp vốn- Cho thuê hợp vốn là phương thức cho thuê tài chính trong đó có nhiều bên cho thuê cùng tài trợ cho một bên thuê. Cho thuê hợp vốn áp dụng trong trường hợp:• Nhu cầu thuê tài chính của bên thuê vượt giới hạn cho thuê tài chính của một công ty cho thuê tài chính, nghĩa là vượt 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính đối với một khách hàng và 80% vốn tự có đối với một nhóm khách hàng có liên quan• Khả năng tài chính, nguồn vốn và tài sản của một công ty cho thuê tài chính không đáp ứng được nhu cầu cho thuê tài chính. Nhu cầu phân tán rủi ro của công ty cho thuê tài chính. Bên thuê có nhu cầu thuê tài chính từ nhiều công ty cho thuê tài chính• Nguyên tắc tổ chức của cho thuê hợp vốn là các thành viên tự nguyện tham gia và thống nhất với nhau về toàn bộ nội dung của khoản cho thuê hợp vốn cũng như thống nhất lựa chọn tổ chức đầu mối cho thuê tài chính, tổ chức đầu mối thanh toán. • Tổ chức đầu mối cho thuê hợp vốn là thành viên được các thành viên tham gia cho thuê tài chính thống nhất lựa chọn và giao trách nhiệm đầu mối cho thuê tài chính.• Tổ chức đầu mối thanh toán là thành viên được các thành viên còn lại thống nhất lựa chọn và cam kết thực hiện các nghĩa vụ thanh tóan cụ thể trong hoạt động cho thuê hợp vốn. Cho thuê trả góp- Cho thuê trả góp là hình thức cho thuê tài chính trong đó bên cho thuê chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản thuê cho bên thuê sau khi bên cho thuê đã thu được một tỷ lệ nhất định tiền thuê tài sản, bên thuê tiếp tục thanh toán khoản tiền còn lại cho bên cho thuê dưới danh nghĩa tiền trả góp mua máy móc thiết bị. Hiện nay hình thức này chưa phổ biến tại Việt Nam do rủi ro quá lớn cho bên cho thuê khi đã chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên thuê mà vẫn chưa thu đủ giá trị tài sản thuê.d. Ý nghĩa cho thuê tài chính Đối với nền kinh tếNgân Hàng Đêm 4 – K21 9Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh- Cho thuê tài chính giúp các doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ, thiết bị:• Với những nền kinh tế đang phát triển, thông qua hoạt động của cho thuê tài chính, các loại máy móc thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến được đưa vào các doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong những điều kiện khó khăn về vốn đầu tư. Nhất là trong thời đại ngày nay- thời đại bùng nổ công nghệ - thì việc đầu tư công nghệ hiện đại một cách kịp thời, nhanh chóng là một yêu cầu rất cần thiết. Nếu có chính sách hợp lý, đồng bộ và toàn diện thì nền kinh tế ở các nước đang phát triển sẽ cải thiện và có thể rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.• Với những nền kinh tế phát triển, cho thuê tài chính có tác dụng cập nhật hoá công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. - Cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế:• Do tính chất của cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn các hình thức tín dụng khác nên cho thuê tài chính thu hút các thành phần kinh tế, các định chế tài chính…tham gia đầu tư vốn để kinh doanh. Mặt khác, trong điều kiện toàn cầu hoá ngày nay thì cho thuê tài chính giúp các nước thu hút các nguồn vốn quốc tế cho nền kinh tế thông qua các máy móc thiết bị cho thuê mà quốc gia đó nhận được mà không làm tăng khoản nợ nước ngoài của quốc gia đó.• Đặc biệt, đối với các nền kinh tế đang phát triển, cho thuê tài chính càng phát huy tác dụng mạnh mẽ hơn do ở các nước này việc tích luỹ vốn cho nền kinh tế là rất khó khăn. Do các doanh nghiệp đều thuộc loại nhỏ và vừa, thu nhập quốc dân thấp, hiệu quả của nền kinh tế thấp nên cho thuê tài chính có thể thu hút vốn tài trợ từ các đơn vị đầu tư, nhất là từ nguồn vốn quốc tế giúp doanh nghiệp hiện đại hoá sản xuất, gia tăng công suất, hiệu quả, kéo theo sự phát triển kinh tế quốc gia. Đối với bên cho thuê- Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ có mức độ an toàn vốn cao:• Như các hình thức tín dụng khác, cho thuê tài chính giúp bên cho thuê hưởng phần lãi cho thuê cho phần vốn gốc đã bỏ ra. Nhưng với tính chất riêng biệt của hoạt động cho thuê tài chính mà bên cho thuê có mức độ an toàn vốn cao. Do quyền sở hữu tài sản cho thuê thuộc về bên cho thuê nên họ có quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản. Nếu có những biểu hiện đe doạ sự an toàn cho giao dịch cho thuê tài chính đó, bên cho thuê có thể thu hồi tài sản cho thuê ngay lập tức. Nhờ vậy, bên cho thuê có thể tránh được những thiệt hại, mất vốn tài trợ…Bên cạnh đó, cho thuê tài chính là phương thức tài trợ bằng tài sản hiện vật nên sẽ hạn chế ảnh hưởng của lạm phát cũng như đảm bảo vốn tài trợ được sử dụng đúng mục đích mà bên được tài trợ yêu cầu, nhờ vậy đảm bảo khả năng trả nợ của bên được tài trợ.- Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê linh hoạt trong kinh doanh:• Trong thời gian diễn ra giao dịch cho thuê tài chính, vốn gốc và lãi cho thuê sẽ do bên thuê thanh toán cho bên cho thuê theo định kỳ, có thể là hàng tháng hay hàng quý hay tuỳ thoả thuận của hai bên. Do đó, vốn tài trợ được thu hồi dần cho phép bên cho thuê tái đầu tư vào hoạt động kinh doanh sinh lợi và giữ vững nhịp độ hoạt động. Ngân Hàng Đêm 4 – K21 10Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh Đối với bên thuê- Bên thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư:• Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhu cầu gia tăng công suất của doanh nghiệp có thể đặt ra bất cứ lúc nào. Việc đáp ứng các nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn vốn tích luỹ mà không phải doanh nghiệp nào cũng luôn đáp ứng được. Đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ do không có tài sản thế chấp cũng như uy tín trên thị trường nên thường gặp nhiều khó khăn về vay vốn trung và dài hạn. Vì vậy trong trường hợp này cho thuê tài chính là phương thức hợp lý giúp doanh nghiệp có thể đầu tư máy móc thiết bị phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh mà không phải bỏ ra ngay một số vốn lớn. Bên cạnh đó, sau khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính, doanh nghiệp với quyền ưu tiên có thể mua lại tài sản thuê và trở thành chủ sở hữu thực sự. - Thuê tài chính không gây ảnh hưởng bất lợi đối với các chỉ số tài chính của bên thuê:• Đa số các nước đều quy định phần tiền thuê trả cho bên cho thuê không đưa vào bảng tổng kết tài sản như một món nợ mà chỉ đưa vào phần giải trình của bảng tổng kết tài sản, nghĩa là nó được hạch toán ngoại bảng và được coi như một khoản nợ phát sinh trong năm tài chính. Do đó, thuê tài chính không làm thay đổi theo chiều hướng bất lợi các chỉ số tài chính của doanh nghiệp như hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu, hệ số vòng quay vốn…- Bên thuê có thể hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới.• Trong điều kiện toàn cầu hoá, bùng nổ công nghệ hiện nay, việc thay đổi máy móc, thiết bị theo kịp đà phát triển của công nghệ mới, góp phần sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường là một vấn đề lớn cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể bán máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu và thay bằng thiết bị hiện đại hơn thông qua thuê tài chính. Đồng thời, bên thuê còn được bên cho thuê, với trình độ hoạt động chuyên biệt trong cho thuê tài chính, sẽ tư vấn về các máy móc thiết bị phù hợp cho doanh nghiệp. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể thoát khỏi tình trạng già cỗi về công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất.• Ngoài ra bên thuê còn được một số lợi ích khác như: thông qua hình thức mua và cho thuê lại của các công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp không bị đọng vốn trong tài sản cố định mà vừa tiếp tục sử dụng tài sản vừa có thể đầu tư cho các dự án khác; thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua thuê tài chính ở các công ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài…1.2.2. Thực trạng phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Việt Nam a. Kết quả đạt được- Tính đến thời điểm ngày 15/06/2012 [nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam]: Hiện tại Việt Nam có 13 công ty cho thuê tài chính đang họat động:• Công ty CTTC ANZ-VTRAC [100% vốn nước ngoài] [ANZ/V-TRAC Leasing Company]• Công ty CTTC I - NH Nông nghiệp & PTNT [ Agribank No1. Leasing Company]• Công ty CTTC II - NH Nông nghiệp & PTNT [ Agribank No2. Leasing Company]Ngân Hàng Đêm 4 – K21 11Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh• Công ty CTTC II NH Đầu tư và Phát triển VN [BIDV Leasing Company II]• Công ty CTTC Kexim [KVLC] [100% vốn nước ngoài] [ Kexim Vietnam Leasing Company]• Công ty CTTC NH Công thương VN [Leasing Company - Industrial and Commercial Bank of Vietnam]• Công ty CTTC NH Ngoại thương VN [ VCB Financial Leasing Company]• Công ty CTTC NH Sài Gòn Thương Tín [ Sacombank Leasing Company]• Công ty CTTC NH Đầu tư và Phát triển VN [BIDV Leasing Company I]• Công ty TNHH CTTC Quốc tế Chailease [100% Vốn nước ngoài] [Chailease International Leasing Company Limited]• Công ty TNHH cho thuê tài chính Quốc tế VN [Vietnam International Leasing Company]• Công ty TNHH một thành viên CTTC Công nghiệp tàu thủy [VINASHIN Financial Leasing Company Limited]• Công ty TNHH một thành viên CTTC Ngân hàng Á Châu [ ACB Leasing Company]- Chất lượng tín dụng các công ty cho thuê tài chính thành viên thuộc Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam: [Đvt: % tổng dư nợ] SttTên đơn vị Năm 2008 09 tháng Năm 2009Nhóm 3,4,5 [%] Nhóm 5 [%]Nhóm 3,4,5 [%] Nhóm 5 [%]1AGRI BANK LEASING I14,60 1,29 16,20 1,602AGRI BANK LEASING II19,20 0,55 13,45 4,423BIDV LEASING I21,80 0,20 8,76 1,844BIDV LEASING II33,20 1,07 3,21 1,995VIETIN BANK LEASING1,60 0,39 1,32 0,356VIETCOMBANK LEASING16,18 11,40 15,24 10,607SACOMBANK LEASING11,00 - 0,45 08ACB LEASING- - 0 09VINASHIN LEASING- - 0 0N guồn: Số liệu báo cáo gửi các thành viên Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam định kỳTrong năm 2009 tỷ lệ nợ quá hạn toàn ngành tăng, trong đó 3 đơn vị là thành viên các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất là AGRI BANK LEASING I, AGRI BANK LEASING II, VIETCOMBANK LEASING với tỷ lệ nợ quá hạn lần lượt là 16,2% ; 13,45%, 15,24% trong đó AGRI BANK LEASING II sau khi được tiến hành kiểm toán để cổ phần hóa và có kiểm toán độc lập định kỳ thì tỷ lệ nợ quá hạn nhóm 5 tức là các khoản nợ có khả năng mất vốn tăng từ 0,55% của năm 2008 lên 4,42% trong 09 tháng đầu năm 2009. Trong các đơn vị hiện đang hoạt động thì Vietcombank Leasing có chất lượng tín dụng xấu nhất khi có hơn 10% nợ quá hạn nhóm 5 mất khả năng thanh toán. Theo thống kê của Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam thì những đơn vị thành viên có nợ Ngân Hàng Đêm 4 – K21 12Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhquá hạn cao là do cho thuê vào 2 loại tài sản có độ rủi ro vận hành, rủi ro thanh khoản cao là máy móc thiết bị khai khoáng, xây dựng và các loại tàu, thuyền chuyên dụng đường thủy.b. Hạn chế:- Mặc dù Nhà nước đã thông qua các hình thức như cho thuê hợp vốn, cho thuê thuần, mua và cho thuê lại…nhưng hiện nay đa số các công ty cho thuê tài chính hoạt động chủ yếu là cho thuê thuần. Nguyên nhân dễ hiểu là phương thức này đơn giản và ít rủi ro cho công ty cho thuê cũng như phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam như chưa hoàn chỉnh luật pháp về cho thuê…- Hoạt động cho thuê tài chính đã có ở Việt Nam gần 15 năm nhưng tài sản cho thuê vẫn chỉ giới hạn là các động sản, bao gồm: phương tiện vận chuyển [ô tô, tàu thuỷ nhỏ…], thiết bị thi công [máy xúc đào, máy ủi…] và thiết bị văn phòng [máy điều hoà, máy in…]. Do Luật bất động sản của nước ta còn chưa hoàn thiện, thủ tục về sở hữu nhà đất chưa thống nhất đã gây trở ngại cho việc đưa bất động sản vào tài sản được phép cho thuê tài chính.- Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, sau gần 15 năm có mặt, thị trường cho thuê tài chính Việt Nam chỉ có 13 công ty được thành lập dưới các hình thức sở hữu khác nhau. Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 150 tỉ đồng - rất nhỏ so với vốn điều lệ của các NHTM [thường là trên 1.000 tỉ đồng]. Và hiện có nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Các doanh nghiệp còn coi cho thuê tài chính là giải pháp cuối cùng.c. Nguyên nhân - Nghiệp vụ cho thuê tài chính còn mới mẻ ngay cả đối với người bán chứ chưa kể đến người tiêu dùng. Do vậy nó chưa được xã hội chấp nhận rộng rãi.- Phí cho thuê tài chính quá cao, bởi nó dựa trên lãi suất vay trung dài hạn và một tỷ lệ % phí hoạt động của các công ty cho thuê tài chính.- Đối tượng phục vụ của cho thuê tài chính chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH. Chưa khai thác hết tiềm năng của thị trường.- Cơ chế cho thuê tài chính coi trọng lịch sử tiền thân của người thuê hơn là tương lai của dự án thuê. Khả năng thẩm định dự án của các doanh nghiệp còn hạn chế, do vậy việc đánh giá các dự án là còn hạn chế, thay vào đó các doanh nghiệp dựa vào lịch sử của bên đi thuê để cho thuê.- Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ, biểu hiện ở quy định lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, quy định về đối tượng khách hàng thuê tài chính, khoản 10 và khoản 11 Điều 20 của Luật các Tổ chức tín dụng.Hệ thống quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, đầy đủ song lại mâu thuẫn, chồng chéo cũng là nguyên nhân quan trọng để các công ty cho thuê tài chính Việt Nam chưa phát triển đúng với tầm vóc của nó trong các nghiệp vụ tài chính hiện đại. Cụ thể như sau: - Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh, quản lý kinh doanh của bên đi thuê chưa thích ứng với môi trường kinh tế nhiều biến động làm cho việc sử dụng tài sản thuê không có hiệu quả, vi phạm hợp đồng thuê tài chính. Mặt khác, quản lý Nhà nước về hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều bất cập, sơ hở dẫn đến lừa đảo gây thiệt hại về tài chính cho công ty cho thuê tài chính. Hiện nay, chưa hình thành thị trường mua bán máy móc, thiết bị đã qua sử dụng tại Việt Nam.Ngân Hàng Đêm 4 – K21 13Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh1.2.3. Giải pháp phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Việt Nam a. Nhóm giải pháp vĩ mô- Tiếp tục hoàn thiện các điều kiện của một giao dịch cho thuê tài chính. Theo các văn bản hiện hành, một giao dịch cho thuê tài chính thoả mãn các điều kiện là: Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên. Để được quyền sở hữu tài sản thuê, bên thuê mua lại tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại. Thời hạn cho thuê một tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.Trong các văn bản hiện hành cần phải bổ sung thêm quy định về việc bên thuê có quyền sở hũu tài sản thuê vào thời điểm kết thúc thời hạn thuê.- Bên thuê và các đối tác trong cho thuê tài chính:• Trong các văn bản nên đề cập "Bên thuê" là mọi tổ chức, đơn vị và cá nhân chứng minh được khả năng thanh toán tiền thuê của mình.• Các đối tác tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính không nên dừng lại ở các doanh nghiệp trong nước mà bổ sung thêm đối tác tham gia thành lập là các doanh nghiệp nước ngoài, việc các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính đã trở nên khá phổ biến ở nhiều nước. Do vậy, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong đối tác của các công ty cho thuê tài chính giúp cho các công ty cho thuê tài chính trong nước tiếp cận nhanh với nguồn máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, đối tác là các tổ chức tín dụng trong công ty cho thuê tài chính phải chiếm tỷ lệ vốn đủ lớn để chi phối hoạt động của công ty.• Cần nâng cao năng lực quản lý năng lực sản xuất, trình độ quản lý, ý thức chấp hành luật pháp, chế độ tài chính kế toán trong doanh nghiệp để góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức cho thuê tài chính thẩm định trước khi cho thuê.- Vấn đề quản lý tài sản thuê: Để đảm bảo an toàn hoạt động cho các công ty cho thuê tài chính, theo kinh nghiệm của nhiều nước, cần phải đăng ký quyền sở hữu tài sản cho thuê, tránh trường hợp bên thuê sử dụng tài sản cho thuê vào mục đích cầm cố, thế chấp và bán - Vấn đề xuất, nhập khẩu đối với tài sản cho thuê: Các công ty cho thuê tài chính muốn có tài sản cho thuê thường phải thông qua uỷ thác hoặc mua lại của các đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nên làm tăng chi phí và không chủ động cho thuê. Để tháo gỡ khó khăn này, đề nghị cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhập khẩu trực tiếp tài sản cho thuê như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu.- Các vấn đề khác.• Cần có chính sách miễn, giảm thuế để tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính áp dụng lãi suất cho thuê phù hợp, đủ sức cạnh tranh trên thị trường như thuế xuất nhập khẩu, thuế chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động cho thuê.• Sớm hình thành các trung tâm giao dịch, mua bán máy móc, thiết bị cũ. Khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính hoặc vì lý do nào đó hợp đồng cho thuê tài chính kết thúc trước hạn, để tìm được một khách hàng mới thuê lại máy móc, thiết bị này quả là một việc khó khăn. Việc hình thành Ngân Hàng Đêm 4 – K21 14Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhcác trung tâm môi giới, mua bán, kinh doanh thiết bị cũ giúp tháo gỡ khó khăn cho các công ty cho thuê tài chính trong việc thu hồi vốn.• Vấn đề markting trong cho thuê tài chính: Do các công ty cho thuê tài chính mới ra đời và hoạt động, nghiệp vụ cho thuê tài chính rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, địa bàn hoạt động của công ty lại rộng khắp trong toàn quốc, do vậy, việc quy định chi phí quảng cáo, tiếp thị của các công ty cho thuê tài chính [5%-7% tổng chi phí] giống như các tổ chức tín dụng hiện hành là chưa hợp lý. Chúng tôi kiến nghị mức chi phí này của các công ty cho thuê tài chính từ 7%-10% là hợp lý hơn.b. Nhóm giải pháp vi mô: Đối với các công ty cho thuê tài chính- Nâng cao năng lực quản trị, điều hành của đội ngũ lãnh đạo phù hợp với cơ chế kinh tế mới; nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên.- Triển khai các sản phẩm mới nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Như cho thuê vận hành, đầu tư tài chính, liên doanh, liên kết trong và ngoài nước để mở rộng thị phần hoạt động.- Nâng cao sự hiểu biết của công chúng về cho thuê tài chính thông qua quảng cáo, marketing. Đối với các doanh nghiệp đi thuê:- Nâng cao năng lực, trình độ quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp; xây dựng các dự án khả thi và hiệu quả.- Thanh toán tiền thuê đầy đủ, tuân thủ các quy định về cho thuê tài chính.- Cho thuê tài chính là vấn đề rộng lớn, phức tạp và mới mẻ ở nước ta. Với những định hướng và giải pháp cơ bản trên đây, tác giả mong muốn góp một số ý kiến vào tiếng nói chung của các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta hiện nay.1.3. NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN 1.3.1. Tổng quan về nghiệp vụ bao thanh toán a. Khái niệm: BTT là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.- Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN và Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN là cơ sở pháp lý rõ ràng và riêng biệt cho hoạt động BTT hiện nay. Tất cả các đơn vị BTT trong và ngoài nước đều phải dựa vào quy định này để thực hiện.b. Đặc điểm Một số đặc điểm cơ bản: BTT có 3 đặc điểm như sau:Ngân Hàng Đêm 4 – K21 15Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh- Đơn vị BTT ứng trước tiền dựa trên các khoản phải thu.- Đơn vị BTT thu hồi các khoản nợ thay cho khách hàng của mình.- Đơn vị BTT chịu các rủi ro tín dụng về người mua [trường hợp miễn truy đòi]. Các bên tham gia: Dịch vụ BTT thông thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba bên:- Đơn vị BTT: là ngân hàng, công ty tài chính chuyên thực hiện việc mua bán nợ và các dịch vụ khác liên quan đến mua bán nợ. Trong nghiệp vụ BTT quốc tế sẽ có hai đơn vị BTT, một đơn vị BTT tại nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị BTT tại nước của nhà nhập khẩu.- Người bán hay nhà xuất khẩu: các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hoặc kinh doanh dịch vụ có những khoản nợ của khách hàng nhưng chưa đến hạn thanh toán.- Người mua hàn hay nhà nhập khẩu: hay còn gọi là người phải trả tiền, đó chính là người mua hàng hóa hay nhận các dịch vụ cung ứng.c. Phân loại BTT Phân loại theo phạm vi trách nhiệm đối với rủi ro - Căn cứ vào mức độ trách nhiệm của người bán, BTT được chia làm hai loại: BTT có truy đòi và BTT miễn truy đòi. • BTT có truy đòi là hình thức BTT, trong đó đơn vị BTT có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho khoản phải thu. • BTT miễn truy đòi là hình thức BTT, trong đó đơn vị BTT chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Đơn vị BTT chỉ có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên mua hàng trong trường hợp bên mua từ chối thanh toán khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng hợp đồng hoặc vì lý do khác không liên quan đến khả năng thanh toán của bên mua hàng.  Phân loại theo phạm vi giao dịch - Căn cứ theo phạm vi giao dịch, BTT gồm có: BTT trong nước và BTT quốc tế. • BTT trong nước là hình thức cấp tín dụng của một NHTM hay một công ty tài chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản thu phát sinh từ việc mua lại các khoản thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng hóa thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong đó, bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú trong phạm vi một quốc gia. • BTT quốc tế là hình thức cấp tín dụng của NHTM hay một công ty tài chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng hóa thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, mà việc mua bán hàng hóa vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.  Phân loại theo phương thức BTT - Theo cách phân loại này, BTT có ba loại: BTT từng lần, BTT hạn mức và đồng BTT. Ngân Hàng Đêm 4 – K21 16Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh• BTT từng lần là hình thức đơn vị BTT và bên bán hàng thực hiện các thủ tục cần thiết và kí kết hợp đồng BTT đối với các khoản phải thu của bên bán hàng. • BTT hạn mức là hình thức đơn vị BTT và bên bán hàng thỏa thuận và xác định một hạn mức BTT duy trì trong một khoảng thời gian xác định. • Đồng BTT là hình thức hai hay nhiều đơn vị BTT cùng thực hiện hoạt động BTT cho một hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, trong đó một đơn vị BTT làm đầu mối thực hiện việc tổ chức đồng BTT.  Phân loại theo cách thức thực hiện - BTT có thể được thực hiện theo hai cách: BTT truyền thống và BTT phi truyền thống • BTT theo phương thức truyền thống là hình thức bên bán và bên mua sẽ liên hệ với đơn vị BTT để biết chắc rằng đơn vị BTT có mua lại các khoản phải thu cho bên bán hàng hay không trước khi thực hiện mua bán theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán. • BTT theo phương thức phi truyền thống là hình thức đơn vị BTT sẽ tiến hành xây dựng những tiêu chuẩn chung cho bên mua và bên bán đủ điều kiện thực hiện BTT sẽ cấp hạn mức BTT cho cả bên bán và bên mua. Nếu những quan hệ giao dịch mua bán phát sinh mà bên mua và bên bán nằm trong tiêu chuẩn chung thì đơn vị này sẽ tiến hành thực hiện BTT, miễn là tổng số tiền ứng trước không vượt quá hạn mức BTT đã được cấp cho bên bán. d. Phân biệt BTT và các hình thức tín dụng khác  Phân biệt BTT với cho vay thông thường  Phân biệt bao thanh toán và chiết khấu giấy tờ có giáNgân Hàng Đêm 4 – K21 17Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhe. Ý nghĩa của nghiệp vụ BTT Đối với đơn vị BTT:Thực hiện nghiệp vụ BTT, các đơn vị BTT thu được nhiều tiện ích: - Doanh thu hoạt động kinh doanh của đơn vị BTT sẽ tăng lên nhờ các khoản tiền thu được khi thực hiện nghiệp vụ này như phí, lãi suất… - Việc thực hiện BTT giúp đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cho đơn vị BTT. - BTT cho phép ngân hàng sử dụng tốt hơn các nguồn vốn huy động được. Các đơn vị BTT có thể loại trừ được các khoản nợ xấu thông qua thực hiện BTT có truy đòi. Trong quy trình thực hiện, đơn vị BTT xem xét đến khả năng tài chính của bên mua và bên bán, hoạt động mua bán phải thực hiện đúng những thỏa thuận và không trái pháp luật, đây là cơ sở vững chắc trong việc thu hồi các khoản phải thu sau khi đơn vị BTT đã mua lại từ bên bán. Còn đối với sản phẩm tài trợ tượng tự khác như: cho vay bảo đảm bằng khoản phải thu, chiết khấu hóa đơn thương mại, chiết khấu L/C… ngân hàng không tham gia vào quá trình giao dịch giữa các bên nên rủi ro nhận nợ xấu của ngân hàng là cao hơn. - Tuy nhiên, đơn vị BTT cũng là chủ thể chịu nhiều rủi ro nhất, những rủi ro này có thể bắt nguồn từ phía người bán, người mua và ngay cả từ chính đơn vị BTT. Những rủi ro đó có thể là do: - Đơn vị BTT không nắm rõ thông tin về phía người bán như tình hình tài chính, khả năng thu hồi các khoản tài trợ, cũng như quá trình giao thương trong quá khứ nên người bán có thể không thể không hoàn trả được khoản tài trợ. - Đơn vị BTT thẩm định khách hàng còn chưa chính xác, còn nhiều thiếu sót do trình độ của đội ngũ nhân viên còn hạn chế, chưa nắm rõ thông tin khách hàng… - Đơn vị BTT chưa có sự quản lý sát sao trong quá trình BTT hoặc cũng có thể do người bán và người mua cố tính thông đồng với nhau để lừa đảo đơn vị BTT.  Đối với người bán:Ngân Hàng Đêm 4 – K21 18Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhSử dụng sản phẩm BTT người bán/nhà xuất khẩu nhận được nhiều lợi ích: - Cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng nhanh hơn: Người bán thậm chí có thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị BTT. Điều này giúp người bán lấp được lỗ hổng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến khi được người mua thanh toán. Lượng tiền mặt sẵn có tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. - Nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất: bên cạnh việc sản xuất kinh doanh mặt hàng chính yếu, người bán còn phải mất thời gian quản lý các khoản phải thu từ người mua. Nếu người bán sử dụng BTT, công việc này sẽ được chuyển cho đơn vị BTT. Người bán không còn phải tốn chi phí để duy trì và điều hành một bộ phận chuyên trách việc xem xét khách hàng có đủ điều kiện mua chịu hay không, cũng như phải kiểm tra và thu hồi các khoản nợ này nữa. - Giảm rủi ro trong thanh toán: khi cho người mua trả chậm, người bán thường lo ngại về việc người mua mất khả năng thanh toán. Với dịch vụ BTT miễn truy đòi, rủi ro này sẽ được chuyển giao cho đơn vị BTT. Dịch vụ này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nhà nhập khẩu do khoảng cách địa lý giữa các quốc gia và sự thiếu thông tin về nhà nhập khẩu. Bằng sự chuyên nghiệp và mạng lưới thông tin đáng tin cậy trên toàn thế giới, các đơn vị BTT quốc tế sẽ góp phần giảm rủi ro về thanh toán trong giao dịch thương mại toàn cầu. Từ đó, doanh nghiệp sẽ tránh được bị chiếm dụng vốn hay rơi vào tình trạng nợ xấu. Ngoài ra, việc nhận được các khoản tiền ứng trước cũng giảm rủi ro tỷ giá cho nhà xuất khẩu. - Nâng cao năng lực cạnh tranh: các nhà cung cấp lớn thường rơi vào cảnh phải bán chịu hàng hóa cho khách hàng, đồng thời thanh toán ngay cho lượng nguyên liệu đầu vào. Tình thế nguy hiểm này có thể được giải quyết bằng sản phẩm BTT; các đơn chào hàng trả chậm hay bằng hình thức ghi sổ sẽ có sức thuyết phục khách hàng hơn, đồng thời doanh nghiệp cũng không phải lo lắng về rủi thanh khoản khi thanh toán chi phí đầu vào. Ngoài ra, việc cải thiện các chỉ tiêu thanh khoản sẽ dẫn đến hệ quả doanh nghiệp được nâng hạng tín nhiệm đối với các tổ chức tín dụng [TCTD]. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. - Mặc dù mang đến nhiều tiện ích cho người bán, nhưng BTT được xem là một hình thức tài trợ có chi phí cao. Đối với doanh nghiệp có doanh thu quá nhỏ thì BTT không phải là lựa chọn tối ưu.  Đối với người mua:Người mua/nhà nhập khẩu ít có vai trò trong nghiệp vụ BTT, nhưng cũng nhận được nhiều tiện ích: - Giảm gánh nặng tài chính: do việc nhà nhập khẩu không phải mở thư tín dụng, không phải trả phí mở thư tín dụng, hay không phải ký quỹ… - Mua hàng với điều kiện tài khoản ghi sổ như: mua giao hàng ngay, mua trả chậm, và nhà nhập khẩu có cơ hội đàm phán điều khoản mua hàng tốt hơn. Hình thức này hỗ trợ rất lớn cho các nhà nhập khẩu về khả năng thanh khoản cũng như hoạt động ngân quỹ. - Giảm công sức và chi phí trong việc quản lý sổ sách kế toán, quản lý khoản nợ: vì khi ngân hàng đã kí hợp đồng BTT với nhà xuất khẩu thì ngân hàng phải có trách nhiệm trong việc theo dõi, giám sát khoản phải thu từ phía nhà nhập khẩu. Vậy khi đó nhà nhập khẩu có thể thỏa thuận với ngân hàng trong việc quản lý sổ sách kế toán cũng như khoản nợ của mình.  Đối với nền kinh tế:Ngân Hàng Đêm 4 – K21 19Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh- Đối với những quốc gia còn tồn tại nhiều hạn chế về pháp luật, hành lang pháp luật chưa vững chắc và trình độ quản lý yếu kém là trở ngại lớn cho hoạt động giao thương trong và ngoài nước. Điều này cũng đồng nghĩa với sự phát triển của quốc gia đó có nhiều hạn chế, sự hấp dẫn đầu tư cũng giảm sút. Dựa vào uy tín của các đơn vị BTT [thường là các ngân hàng hoặc công ty tài chính chuyên nghiệp] các doanh nghiệp tại các nước đang phát triển có thể tiếp cận dễ dàng với khách hàng tiềm năng tại các thị trường mới trên thế giới. - Thông qua việc thực hiện BTT, các đơn vị BTT có trách nhiệm tư vấn, kiểm tra các nghiệp vụ mua bán nhằm bảo đảm có thể kiểm soát khoản phải thu trong tương lai được chặt chẽ và loại trừ được nợ xấu. Từ đó, tạo tâm lý yên tâm, sự tự tin cho doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh. - Tóm lại, lợi ích mà BTT mang lại cho nền kinh tế: • Xóa bỏ rào cản thương mại quốc tế và thúc đẩy ngoại thương phát triển. • Tạo ra môi trường kinh doanh ổn định cho nền kinh tế. 1.3.2. Thực trạng phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam a. Kết quả đạt được- Nghiệp vụ BTT cơ bản đã hình thành và đang dần phát triển theo hướng đa dạng và chuyên nghiệp hơn.Bảng 2.8: Số lượng đơn vị cung cấp dịch vụ BTT tại Việt Nam- Nghiệp vụ BTT góp phần thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ khác của ngân hàng.Triển khai nghiệp vụ BTT thể hiện định hướng chiến lược phát triển đa dạng dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng.Việc thực hiện nghiệp vụ này đã thúc đẩy sự phát triển của nghiệp bảo lãnh, thanh toán vàchuyển tiền trong nước cũng như quốc tế, thúc đẩy cả dịch vụ kinh doanh tiền tệ trên thị trường hối đoái quốc tế, thanh toán quốc tế và chứng khoán.- Nghiệp vụ BTT góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt NamThực tế cho thấy khách hàng chủ yếu của BTT Việt Nam là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước, nó phản ánh nhu cầu ngày càng tăng của các doanh nghiệp về vốn, về các hình thức bảo hiểm để hạn chế rủi ro trong thanh toán.Các khía cạnh tích cực của BTT thể hiện ở 4 chức năng cơ bản của BTT: Chức năng tài trợ ứng trước, chức năng bảo hiểm rủi ro tín dụng, chức năng thu hộ tiền và chức năng quản lý sổ sách phải thu. Ngân Hàng Đêm 4 – K21 20Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhTrên cơ sở những khía cạnh tích cực ấy, BTT thúc đẩy sự tham gia nhiều hơn của các doanh nghiệp Việt Nam vào việc mua bán với các tổ chức trong và ngoài nước.b. Hạn chế - Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực nhưng tình hình BTT ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và chưa thể hiện hết những ưu điểm vốn có của nó.- Mặt khác, dịch vụ BTT tại các ngân hàng thường chỉ chú trọng tới các doanh nghiệp lớn. Dịch vụ BTT của ngân hàng chưa thật tiện lợi, hệ thống thông tin tín dụng còn thiếu thốn nên để tránh rủi ro, ngân hàng đưa ra những điều kiện rất khó đáp ứng, có đòi hỏi cao đối với khách hàng như phải chứng minh uy tín của bên mua hàng, các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay phải có sự bảo lãnh của định chế tài chính khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.- Đối với quốc tế, BTT thường là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng BTT và nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức BTT, người bán [nhà xuất khẩu] sẽ hết trách nhiệm đối với hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong những ưu điểm nổi bật làm BTT trở nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không còn lo lắng, bận tâm với hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì dịch vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ và để đảm bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện BTT có quyền truy đòi. Điều này cũng được xem là một cản trở lớn đối với sự phát triển dịch vụ này tại Việt Nam. Nó làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không muốn sử dụng dịch vụ.c. Nguyên nhân - Khung pháp lý: Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN và Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN đã quy định những vấn đề cơ bản trong hoạt động BTT. Tuy nhiên, quy chế này vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Vì thế, các NHTM, công ty tài chính vẫn chưa mạnh dạn triển khai rộng rãi hoạt động này.- Khái niệm BTT còn khá mớiQuy chế hoạt động BTT của các tổ chức tín dụng mới có hiệu lực từ ngày 01/10/2004, nên các doanh nghiệp Việt Nam còn hiểu biết hạn chế về BTT. Một số doanh nghiệp lớn có đôi chút am hiểu về sản phẩm BTT do được các ngân hàng tiếp thị hoặc thông qua các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn phát triển kinh tế còn đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn rất mơ hồ khi nghe nhắc đến nghiệp vụ BTT. Từ đó, họ không có khái niệm sử dụng dịch vụ cũng như lựa chọn dịch vụ phù hợp với việc kinh doanh của doanh nghiệp mình.- Chi phí cao gây e ngại cho các doanh nghiệpBTT là một nghiệp vụ có nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro từ phía người mua. Vì vậy, dịch vụ BTT có chi phí tương đối cao, trung bình khoảng 3 - 5% doanh thu. Chi phí cao bởi vì ngoài việc bù đắp rủi ro, còn bao gồm chi phí quản lý sổ sách, chi phí chuyển phát nhanh và các chi phí phụ khác. Điều này gây tâm lý e ngại cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ BTT vì tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp Việt Nam thực sự chưa cao.- Sản phẩm BTT chưa có sức hấp dẫn đối với khách hàngNgân Hàng Đêm 4 – K21 21Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhXét về mặt lý thuyết, BTT khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên tài sản thế chấp của tín dụng ngân hàng. Nhưng thực tế ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn là vấn đề tiên quyết để nhận được nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài sản đảm bảo không những được các ngân hàng Việt Nam mà còn được các ngân hàng nước ngoài xem trọng. Điều này cũng là tất yếu, bởi vì, đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro, chưa cho phép ngân hàng mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài chính với độ chính xác tin cậy chưa cao. Chính việc ngân hàng đòi hỏi bên bán phải có tài sản đảm bảo đã làm giảm đi ưu thế của dịch vụ BTT, đồng thời cũng đã làm mất đi bản chất của dịch vụ này.Ngoài ra, bên bán hàng muốn được ngân hàng thực hiện BTT, khách hàng của bên bán [bên mua hàng] phải được đơn vị BTT cấp hạn mức tín dụng. Điều này thật sự vô lý, và đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ BTT.- Trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ước và tập quán quốc tếSự không thống nhất giữa các qui định về BTT cũng tạo một rào cản lớn cho sự phát triển của BTT quốc tế. Bởi vì BTT quốc tế không những chỉ chịu sự điều tiết của GRIF [General rules for international factoring], mà còn chịu sự điều tiết của luật pháp tại quốc gia của các bên liên quan trong hợp đồng. Ví dụ như: theo GRIF thì không cần phải có xác nhận của người mua đồng ý thanh toán cho đơn vị BTT. Tuy nhiên, theo Quy chế BTT tại Việt Nam thì phải có xác nhận này thì hợp đồng BTT giữa bên bán và tổ chức BTT mới có hiệu lực. Sự không thống nhất này gây khó khăn cho bên bán và đơn vị thực hiện BTT.Mặt khác, mỗi một quốc gia có những qui định cũng như tập quán riêng. Vì vậy, để nắm bắt, am hiểu tất cả các luật lệ quốc tế, thật không đơn giản. Và chính việc không am hiểu luật pháp quốc tế sẽ dễ dẫn đến việc tranh chấp, bất lợi trước pháp đình.- Quan hệ với thị trường nước ngoài còn hạn chếTrong BTT quốc tế, người mua và đơn vị BTT xuất khẩu ở hai quốc gia khác nhau, vì thế việc thẩm định người mua rất khó khăn. Nhất thiết cần phải có sự tham gia hỗ trợ của một tổ chức BTT tại quốc gia người mua [đơn vị BTT nhập khẩu]. Do đó, một ngân hàng muốn thực hiện BTT quốc tế tốt, cần phải có mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức BTT khác trên thế giới. Nhưng đa số các ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa đủ điều kiện để mở các chi nhánh tại nước ngoài. Hơn nữa, mối quan hệ với các ngân hàng và đơn vị BTT nước ngoài còn nhiều hạn chế. Đây thực sự là một khó khăn rất lớn cho các ngân hàng Việt Nam.Ngoài ra, cũng còn một lý do nữa, đó là chủ yếu nghiệp vụ BTT chỉ được thực hiện ở hội sở của các ngân hàng. Phần lớn các chi nhánh chưa quen thuộc và cũng chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện Ngân Hàng Đêm 4 – K21 22Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhcũng như đẩy mạnh tiếp thị dịch vụ này đến khách hàng. Điều này cũng là một rào cản gây khó khăn cho việc mở rộng, phát triển sản phẩm ở thị trường đầy tiềm năng như nước ta.1.3.3. Giải pháp phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam a. Nhóm giải pháp vĩ mô- Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động BTT.Về phía NHNN, cần nhanh chóng và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động BTT. Đặc biệt nên xem xét, tham khảo với văn bản luật trên thế giới để thống nhất với cách hiểu chung của thông lệ quốc tế về BTT và để mở rộng đối tượng cung ứng dịch BTT.- Xây dựng trung tâm điều tiết quản lý thông tin tín dụng, đánh giá chất lượng các bên nhằm cung cấp những thông tin xác thực cho các đơn vị BTT.Hiện nay các TCTD có thể truy cập thông tin về các doanh nghiệp thông qua website riêng biệt đó là hệ thống thông tin tín dụng [CIC]. Do đó, việc xây dựng mới hoặc tiếp tục phát triển hơn nữa trung tâm CIC là rất cần thiết cho các đơn vị BTT. b. Nhóm giải pháp vi mô Dự báo trong tương lai sẽ có thêm một số NHTM khác tham gia vào nghiệp vụ mới mẻ và tiềm năng này. Tuy nhiên , theo xu thế thanh toán quốc tế là phương thức ghi sổ ngày càng chiếm ưu thế và theo nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp trong nước sẽ buộc các ngân hàng trong nước có hoạt động thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại phải khẩn trương triển khai nghiệp vụ này, khi đó BTT sẽ là một nghiệp vụ không thể thiếu của một ngân hàng hiện đại. Để sản phẩm BTT phát triển nhanh chóng tại Việt Nam thì các NHTM cần có giải pháp tập trung khắc phục những hạn chế và những nguyên nhân cơ bản ở trên.- Xây dựng sản phẩm phù hợp và chiến lược marketing• Xây dựng sản phẩm phù hợp với thị trường Hiện nay sản phẩm BTT còn khá đơn điệu và kém hấp dẫn với hình thức duy nhất là có truy đòi. Vì thế cần nghiên cứu và phát triển thêm nhiều sản phẩm mới để đa dạng hóa sản phẩm BTTBên cạnh việc mua lại các khoản phải thu dưới hình thức có truy đòi, ngân hàng có thể thực hiện BTT miễn truy đòi kết hợp với việc cung cấp thêm chức năng bảo hiểm rủi ro đối với bên mua có uy tín cao trên thị trường, là công ty lớn có tình hình tài chính minh bạch. Đối với hoạt động thương mại quốc tế, việc ngân hàng thực hiện BTT miễn truy đòi kết hợp với bảo hiểm rủi ro cho người mua là gói sản phẩm sẽ được nhiều nhà xuất khẩu lựa chọn. Bởi vì do thiếu thông tin, không nắm rõ về đối tác, để đảm bảo được thanh toán, nhà xuất khẩu trong nước sẽ sẵn sàng trả cho ngân hàng với mức phí cao hơn. Điều này vừa làm phong phú thêm hoạt động BTT của ngân hàng vừa có thể tăng thêm thu nhập cho ngân Ngân Hàng Đêm 4 – K21 23Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhhàng. Và điều này cần sự nỗ lực rất lớn từ phía ngân hàng trong việc đẩy mạnh mối quan hệ với các đơn vị BTT nhập khẩu, cũng như nắm bắt được thông tin về thị trường xuất khẩu của khách hàng.• Xây dựng chiến lược phát triển thông qua marketing. Để dịch vụ BTT phát triển, việc đầu tiên đơn vị BTT cần thực hiện làgiới thiệu cho khách hàng làm quen thông qua các buổi hội thảo, quảng cáo… thông qua những chiến lược marketing hiệu quả. Muốn làm tốt điều này, các đơn vị BTT trước hết phải tập huấn cho các cán bộ trực tiếp thực hiện về những ưu nhược điểm của dịch vụ, đồng thời hướng dẫn thực hiện theo quy định của đơn vị.Sau đó đơn vị BTT cần thực hiện quảng cáo về sdịch vụ, một số biện pháp giúp các doanh nghiệp quan tâm đến lợi ích của dịch vụ BTT.- Chính sách hỗ trợ về giá và phí khi tham gia hình thức BTTMột trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm BTT tuy đã ra đời cuối năm 2004 nhưng đến nay vẫn chưa được các doanh nghiệp quan tâm và sử dụng rộng rãi là do doanh nghiệp Việt Nam cho rằng giá cả dịch vụ BTT khá cao so với các sản phẩm tín dụng vay vốn thông thường hiện nay. Nên thực hiện các chương trình khuyến mãi, giảm phí dịch vụ BTT trong thời gian đầu tạo sự hấp dẫn và làm quen của các doanh nghiệp.- Xây dựng quy trình lựa chọn và kiểm soát bên bánĐể ký được hợp đồng BTT với bên bán và duy trì được mối quan hệ hợp tác lâu dài cùng có lợi, đơn vị BTT cần thực hiện tốt các yêu cầu như: phải lường trước tất cả những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình làm ăn với khách hàng; phải quyết định xem liệu đơn vị BTT có thể quản lý những khoản rủi ro này một cách an toàn và hiệu quả không.- Xây dựng quy trình lựa chọn và kiểm soát bên mua• Kiểm soát rủi ro từ phía người mua và vấn đề tài trợ.Chất lượng và tính đa dạng của người mua là một trong những vấn đề mà đơn vị BTT cần phải lưu ý trong vấn đề đánh giá khoản phải thu: tùy vào chất lượng của người mua mà đơn vị BTT quyết định có tài trợ hay không và nếu có thì sẽ cấp một hạn mức phù hợp; tính đa dạng của người mua sẽ hạn chế được rủi ro cho đơn vị BTT trong trường hợp có xảy ra vỡ nợ. Do vậy, nếu các khoản phải thu tập trung vào một số ít người mua thì một cách để quản lý rủi ro hữu hiệu là: quy định nếu tổng khoản phải thu của bất kỳ người mua nào mà vượt quá một mức nào tổng giá trị khoản phải thu của người bán thì đơn vị BTT sẽ không tài trợ cho phần vượt quá đó. Tuy nhiên, điều này sẽ giảm khả năng cạnh tranh của đơn vị BTT nên việc chấp nhận tính tập trung vào một số ít người mua cần phải thỏa mãn những yếu tố sau: sản phẩm của người bán là sản phẩm có thể BTT; người mua đáng tin cậy, có thể cấp tín dụng được và có mối quan hệ làm ăn tốt, lâu dài với người bán; hồ sơ về các khoản phải thu phải đầy đủ; người bán phải ý thức được lợi ích của việc xây dựng quan hệ với nhiều người mua, có uy tín và luôn tích cực để đạt được Ngân Hàng Đêm 4 – K21 24Phân biệt các nghiệp vụ NHTM: chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnhmục tiêu đó; đơn vị BTT phải tìm ra được giải pháp thu hồi được khoản tiền đã tài trợ trong trường hợp người bán kinh doanh lỗ. • Đánh giá độ tin cậy của người mua.• Quản lý rủi ro từ người muaKhi quyết định thực hiện dịch vụ BTT cho một khách hàng, đơn vị BTT luôn hy vọng rằng họ đã đưa ra một quyết định đúng đắn dựa trên những thông tin thu thập ngay tại thời điểm đó. Tuy nhiên tình hình tài chính của người mua luôn thay đổi. Do vậy đơn vị BTT phải luôn kiểm soát quá trình kinh doanh giao dịch của người mua để có chiến lược đòi tiền thật hiệu quả mà vẫn duy trì được mối quan hệ tốt đối với người mua. - Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh về dịch vụ BTTVấn đề con người luôn là yếu tố cốt lõi trong hoạt động của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Nghiệp vụ BTT là một nghiệp khá mới mẻ đối với các NHTM tại Việt Nam. Do đó, việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và nhân viên thực hiện nghiệp vụ BTT cần có sự quan tâm tích cực, đào tạo chuẩn mực, có chất lượng, cung cấp đủ kiến thức kinh tế thị trường và hoạt động ngân hàng hiện đại, đủ nguồn nhân lực bổ sung và thay thế theo yêu cầu mới. - Cải thiện và nâng cao mức độ hiện đại hóa công nghệ trong đơn vị BTTCông nghệ là yếu tố quan trọng sau yếu tố con người. Hệ thống đơn vị BTT có nhân viên giỏi nhưng không có hệ thống các sản phẩm công nghệ ưu việt thì cũng không thể làm nên một hệ thống BTT có chất lượng cao cung cấp cho khách hàng. - Mở rộng các mối quan hệ và xây dựng hệ thống đại lý So với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thì các ngân hàng trong nước bất lợi hơn về mạng lưới hoạt động vì đa số các ngân hàng này đều có mạng lưới trên khắp thế giới. Khi thực hiện BTT cho một khách hàng ở quốc gia nào thì chi nhánh ở quốc gia đó sẽ thu thập thông tin một cách dễ dàng,tiến hành đánh giá khách hàng và thẩm định khả năng thanh toán vì vậy giảm được rủi ro cho đơn vị BTT. Do đó, để hoạt động BTT đạt hiệu quả và phát triển, các ngân hàng rất cần thiết phải mở rộng quan hệ đại lý.1.4. NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH 1.4.1. Tổng quan về nghiệp vụ bảo lãnh a. Khái niệm Bảo lãnh ngân hàng” là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh theo thỏa thuận.Ngân Hàng Đêm 4 – K21 25

Video liên quan

Chủ Đề