So SÁNH Nho giáo và Pháp gia
SO SÁNH TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIABạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.35 KB, 28 trang ) Show
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 1.1.2 Các quan điểm của Nho gia. 3 1.2 Khái quát Pháp gia 5 1.2.1 Lịch sử hình thành và đặc điểm 5 1.2.2 Các quan điểm của Pháp gia 7 Chương 2. SO SÁNH SỰ TƯƠNG ĐỒNG & KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA – PHÁP GIA 2.1 Sự tương đồng 10 2.2 Sự khác biệt 12 2.2.1 Tư tưởng biện chứng 12 2.2.2 Điều hành theo quy luật 13 2.2.3 Về trị quốc 14 2.2.4 Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người 18 Chương 3. KẾT LUẬN 21 3.1 Tổng quát 21 3.2 Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN I. MỞ ĐẦU Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn thiện của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của triết học Phương Đông thời đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Pháp gia, đây là hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội… Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư tưởng ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội đương thời. Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành bài viết này! Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 1 PHẦN 2: NỘI DUNG Chương 1. KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA 1.1 Khái quát Nho gia 1.1.1 Lịch sử hình thành và đặc điểm 1.1.1.1 Lịch sử hình thành (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nho_gi%C3%A1o) Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo. 1.1.1.1.1 Nho giáo nguyên thủy Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. 1.1.1.1.2 Hán Nho Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 2 phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị". 1.1.1.1.3 Tống Nho Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di . Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị. 1.1.1.2 Đặc điểm của Nho gia Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 3 con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó. 1.1.2 Các quan điểm của Nho gia (Giáo trình triết học – Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học (2007),NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội). 1.1.2.1 Đường lối xây dựng đất nước 1.1.2.1.1 Điều kiện xây dựng đất nước Khổng tử quan niệm rằng một quốc gia muốn thịnh vượng thì người cầm quyền phải thực hiện được 3 việc lớn giúp cho xã hội ổn định: Thực túc, Binh cường và Dân tín (ăn uống đầy đủ, quân đội mạnh, dân tin tưởng) Trong ba điều kiện trên thì dân tín là quan trọng nhất, phải làm cho dân tin, “dân vi bang bảo”: dân là gốc nước, gốc vững thì nước mới yên 1.1.2.1.2 Dưỡng dân, giáo dân Dưỡng dân: nuôi dân. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà cầm quyền là phải khéo nuôi dân để dân quý, nước thịnh Giáo dân: Dân được giáo hóa thì dễ sai bảo, dễ trị, giáo hóa tốt nước sẽ yên. Giáo dân được thực hiện bằng cách mở các trường dạy học. Dạy dân bằng lễ, nhạc, trong đó lễ để dân biết điều phải mà làm, trọng người trên, nhạc để hòa nhập trên dười, dạy con hiếu thảo với cha mẹ, ngoài ngoài kính nhường, thận trọng trong cư xử. Nhà cầm quyền có 2 cách để giáo hóa dân: tu dưỡng đạo đức cá nhân và đức trị Tu dưỡng đạo đức cá nhân: làm gương, sửa mình để sửa người. Người trị dân phải có đức thì dân mới theo. Người trên mà có đức thì cảm hóa được dân. Đức trị: người trị dân phải có đức, trị dân bằng đức. Lấy đạo đức để răn dạy con người và từ đó ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, dẫn dắt dân chứ không dùng đến cưỡng chế trừng phạt Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 4 1.1.2.1.3 Đào tạo con người Trong xã hội Nho gia, con người được đào tạo phải là người vừa có Đức, vừa có Tài, với ba loại người chủ yếu như sau Kẻ sỹ: học để làm quan, dùng thì làm, bỏ thì ở ẩn. Hạng 1: đi sứ 4 phương không làm nhục mệnh vua; Hạng 2: chất phác, chính trực, thích làm điều nghĩa, biết xét lời nói, quan sát nét mặt người khác mà hiểu tâm lý; Hạng 3: được họ hàng khen là có hiếu Đại trượng phu: vượt qua nhiều thử thách, vững vàng như cây tùng cây bách Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, ân tình bất năng du Quân tử: mẫu người lý tưởng nhất: đạt được Nhân, trí dũng: có đức nhân để cảm hóa mọi người, có tri thức để không bị lầm lẫn, có dũng để bảo vệ chân lý, lẽ phải 1.1.2.2 Quan điểm về Đạo đức và giáo dục con người 1.1.2.2.1 Thuyết Nhân, Lễ, Chính danh Nhân: là ái nhân, biết yêu thương người khác, không làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình. Muốn đạt được đức nhân thì phải khắc kỷ: từ bỏ tính tham lam, ích kỷ, và phục lễ: hành động theo đạo lý, chân lý. Người có nhân là người hoàn thiện, thực hiện đúng các chuẩn mực: Trung: vua minh – tôi trung Hiếu: kính yêu cha mẹ và những người lớn tuổi trong nhà. Những yêu cầu để dạt Hiếu là phải có con nối dõi, phải chăm sóc, kính trong bố mẹ Nghĩa: thấy việc gì đáng làm phải làm, không hề mưu tính đến lợi ích cá nhân Trí: sự minh mẫn sáng suốt, biến nhận thức đúng sai. Muốn có trí phải học, không học thì dù thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu dốt làm biến chất Dũng: là lòng can đảm, là sức mạnh để làm chủ tình thế, hiểu rõ chân lý và bảo vệ chân lý Lễ: những nghi thức nhất định trong tế lễ, là kỷ cương của xã hội, những qui phạm đạo đức, qui tắc cư xử hàng ngày Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 5 Chính danh: phải làm đúng danh phận của mình, không ở vị trí ấy thì không được bàn công việc của vị trí ấy. Danh đi với ngôn: ngôn cũng phải chính, lời nói đi đôi với việc làm, không được nói nhiều làm ít, không được bên ngoài thì kính cẩn, bên trong lại không 1.1.2.2.2 Ngũ luân Theo đạo đức và luân lý của Nho giáo thì cáo đạo làm người thông thường trong thiên hạ có năm bậc – ngũ luân – phản ánh 5 mối quan hệ phổ biến trong xã hội Quân – Thần: quan hệ vua tôi, vua phải minh, thần phải trung; Phu – Tử: quan hệ cha con, cha phải từ, con phải hiếu; Phu – phụ: quan hệ chồng vợ, chồng trọn nghĩa, vợ trọn trinh; Huynh – đệ: quan hệ anh em, anh em như thể tay chân; Bằng hữu: bạn bè, phải lấy tín thành mà đối đỗi nhau 1.2 Khái quát Pháp gia 1.2.1 Lịch sử hình thành và đặc điểm 1.2.1.1 Lịch sử hình thành Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất về tư tưởng và chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay. Quản Trọng (chữ Hán: 管仲) là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Ông nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn. Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua việc tiến hành rất Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 6 nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông, người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Quản Trọng được đánh giá là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia. http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3n_Tr%E1%BB%8Dng Sang nửa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển. Thương Ưởng( 商鞅 - khoảng 390 TCN-338 TCN) được vua Tần tin dùng áp dụng chính sách Pháp trị của mình coi trọng hiến pháp, chủ trương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các chính sách khuyến khích dân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại ( 401-337 TCN) chủ trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo (370-290 TCN) chủ trương dùng thế, Ngô Khởi (440 – 381 TCN) cho rằng muốn làm cho nước mạnh phải biết đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình. Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi (韓非 - khoảng 280 - 233 TCN) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp gia, Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, cho rằng con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.Ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ. 1.2.1.2 Đặc điểm của Pháp gia Nếu như Thận Đáo đề cao "Thế", Thân Bất Hại đề cao "Thuật", Thương Ưởng đề cao "Pháp" trong phép trị nước thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó, Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 7 "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương. Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. 1.2.2 Các quan điểm của Pháp gia 1.2.2.1 Trị nước phải kết hợp các yếu tố Pháp Hình Nông Chiến Nghệ Thế Luật Phạt Nghiệp Tranh Thuật Lực Nội dung chủ yếu của Pháp luật, hình phạt là thưởng, phạt. Thưởng hậu thì điều mình muốn dân làm, dân mau mắn làm ăn. Phạt nặng thì điều mình ghét và cấm đoán thì dân mới tránh, từ đó mới khuyến khích dân làm điều thiện, ngăn ngừa điều ác. Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 8 Chủ trương xây dựng pháp luật tuân theo 4 nguyên tắc: Nguyên tắc 1: thiên thời, địa lợi, nhân hòa; Nguyên tắc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân nhắc kỹ càng; Nguyên tắc 3: pháp luật phải soạn thảo sao cho dâm dễ hiểu, dễ thi hành, phải được áp dụng nhất loạt với mọi người; Nguyên tắc 4: pháp luật phải công bằng, phải mang tính phổ biến. Về nông nghiệp: phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán (ức thương), tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội mạnh. Về chiến tranh: trường phái pháp gia chủ trương xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh. Về Thuật: thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào. Vua trị dân thông qua quan lại, quan lại tốt thì dân không loạn, quan lại xấu thì dân nổi loạn. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài năng, trao đúng chức vụ, quyền hạn và loại được kẻ bất tài. Về Thế: là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa vào thế mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật. 1.2.2.2 Tư tưởng biện chứng Quan điểm thời biến, pháp biến thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn. Theo Hàn Phi Tử, ông thừa nhận sự tồn tại của lý – tính quy luật hay những lực lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 9 hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp. Thừa nhận bản tính con người là ác, cho rằng trong xã hội người tốt ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều xấu Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 10 Chương 2. SO SÁNH SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA – PHÁP GIA 2.1 Sự tương đồng Khi so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta thấy có những điểm tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh hưởng này Đầu tiên có thể kể đến mục đích của hai trường phái Nho gia và pháp gia đều mang tinh thần muốn xây dựng một xã hội thái bình, đất nước ấm no và giàu mạnh. Có thể quan điểm khác nhau nhưng mong muốn và mục tiêu của cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều là giải quyết tình trạng hỗn loạn, ổn định và phát triển quốc gia ngày một hùng cường. Có thể tư tưởng hai phái Nho gia và Pháp gia có những nét khác nhau, nhưng một số công cụ được sử dụng trong quá trình điều hành đất nước của những nhà cầm quyền có những nét tương đồng. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Thực túc, thì trong Pháp gia chính là Nông nghiệp, cụ thể là phát triển nông nghiệp, tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội mạnh. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Binh Cường, thì trong Pháp gia chính là Chiến tranh, cụ thể là xây dựng quân đội mạnh, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh. Tuân Tử - người chủ trương phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật, một trong hai bậc thầy Nho gia thời Chiến quốc, cùng với Mạnh Tử, cho rằng bản tính con người là ác (nhân chi sơ tính bổn ác) vì con người vốn sẵn có lòng ham lợi, để thỏa mãn những ham muốn, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên của mình nên dẫn đến tình trạng tranh giành, cướp đoạt của nhau dẫn đến chiến tranh. Còn theo Hàn Phi Tử, người học trò của Tuân Tử, theo trường phái triết học Pháp gia cũng có cùng quan điểm với thầy mình khi quan niệm “tính người” là ác, đưa ra học thuyết cá nhân vị lợi, con người luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội Nho gia và Pháp gia đều là những tư tưởng trị quốc có ý nghĩa và được vận dụng sâu rộng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, có lịch sử lâu dài và có ảnh hưởng đến Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 11 các quốc gia Á Đông khác, không chỉ bao hàm nội tại trong xã hội Trung Quốc mà còn lan sang tận các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam phát triển bền bỉ, được hoàn thiện liên tục và có ý nghĩa cho đến tận ngày nay Cùng nhìn nhận cấu trúc xã hội với những bất bình đẳng như một thực tế đã định và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Hòa hợp xã hội đồng nghĩa với việc cá nhân thuận theo xã hội. Thực tế của xã hội luôn luôn có kẻ giàu, người nghèo, luôn có người quân tử và kẻ tiểu nhân, các thứ bậc trong xã hội là một tất yếu mà mỗi một cá nhân trong xã hội phải thuận. Mỗi cá nhân không được nằm ngoài vòng tròn thực tại của xã hội, vì mỗi một cá nhân là mỗi yếu tố cấu thành xã hội. Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức – xã hội mà thời đại lúc bấy giờ đã đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định. Nho gia sử dụng phương cách Nhân trị để thu phục lòng dân thì Pháp gia sử dụng pháp trị để giải quyết thực tiễn xã hội. Mặc dù cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều có những thời kỳ phát triển rực rỡ và hưng thịnh nhưng cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ lâm vào bế tắc. Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh – Thanh thì trở nên khắt khe và bảo thủ. Sang thế kỷ XIX thì Nho giáo đã thật sự trở nên già cỗi, không còn sức sống Chính vì tính phục cổ và bảo thủ mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp với trào lưu văn minh của thế giới. Đối với Pháp gia, một minh chứng có thể dẫn dụ cho tình trạng bế tắc của hệ tư tưởng này chính là Nhà Tần. Trong thời đại hỗn loạn, việc chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn khiến nước Tần trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng do quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục đi ngược lại với xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. Vì vậy, sau khi đã thống nhất được đất nước, nước Tần vẫn triệt dể thực hành pháp trị mà dẫn đến mất nước. Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 12 2.2 Sự khác biệt 2.2.1 Tư tưởng biện chứng Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia: điều hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho xã hội phát triển theo đúng hướng của nó. Còn Nho gia không đề cập đến điều này Pháp gia: quan điểm thời biến Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có chế độ xã hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn Nho gia: quan điểm bất biến Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người, nên trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người, lương tri, lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải biết kính trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời. Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và nâng cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông vua mà thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất biến, Đạo diệc bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay đổi). Khổng Tử dựa vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính danh Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu vốn đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể không cúi đầu trước con trời (Thiên tử) Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 13 Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con người một khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để chuyển sang thần phục trước “siêu người” Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là do trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù hợp với cái Danh. Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế: “Trẻ con đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nhưng chiều đến, thế nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để chơi, nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, hùng biện mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà không biết sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chứ không dùng để trị nước” Phan Ngọc (dịch). Hàn Phi Tử. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 327. 2.2.2 Điều hành theo quy luật Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau” Phan Ngọc (dịch). Hàn Phi Tử. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 561. Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 14 Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu” Phan Ngọc. Sđd., tr. 55, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”. Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”(10) Phan Ngọc. Sđd., tr. 478-479. Đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực, chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần dân. 2.2.3 Về trị quốc Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp, hình phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 15 giáo hoá đạo đức và thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính danh, định phận” là làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy cứ thế mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự được phân minh, “Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 11). Khi Tử Lộ hỏi về chính trị, Khổng Tử đáp: Muốn trị nước, trước hết phải thực hiện “chính danh”, bởi vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì đúng với phận, với nghĩa, đã xưng danh đúng với danh phận, thì phải tùy theo đó mà làm” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Khổng Tử cho rằng: Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy phục. Nội dung đường lối đức trị là thực hiện 3 điều: dân đông, kinh tế phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong công việc, gìn giữ chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức dân hợp lý… Để xây dựng xã hội đại đồng, cần dựa vào sự nghiệp giáo dục để uốn nắn nhân cách, bồi dưỡng đào tạo nhân tài theo hai phương châm: tiên học lễ, hậu học văn và học đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế. Để học tốt, người học trò phải có tinh thần khiêm tốn và cầu tiến, biết suy tư và luôn tích cực trong học tập… Mạnh Tử chủ trương thực hành đường lối đức trị dựa trên tinh thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh có nghĩa là, Dân quý nhất, kế đến là đất nước và lúa gạo, còn vua là cái quý sau cùng), nhân chính và thống nhất… Khổng Tử cho rằng: Danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ - nhạc bất hưng, lễ - nhạc bất hưng thì hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu vào đâu? Người quân tử quan niệm được danh thì nói được, nói được thì làm được. Theo Mạnh Tử thì cách cai trị đất nước bằng đức trị và thực hành chính danh để xây dựng một xã hội đại đồng,… Triết lý này được trình bày thành một hệ thống Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 16 bao gồm các tư tưởng về đạo đức – chính trị – xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể khái quát như sau: Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng xã hội, cơ sở gia đình không phải là những quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt là 3 quan hệ (đạo) vua – tôi, cha – con, chồng - vợ. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ thì xã hội ổn định, gia đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc loạn lạc, luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lõng lẽo là do 3 quan hệ này rối loạn, do danh - thực oán trách nhau, nghĩa là, vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi; cha chẳng ra cha, con chẳng ra con; vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra chồng. Vì vậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo đức làm cứu cánh. Nếu như Nho gia đề cao đức trị thì Pháp gia đề cao "Thế" (Thận Đáo), "Thuật" (Thân Bất Hại), "Pháp"( Thương Ưởng) trong phép trị nước và Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ. Pháp được hiểu là qui định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân theo; là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh phận, trách nhiệm của con người trong xã hội. Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động trái pháp; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn (Tôn quân quyền). Theo Hàn Phi, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau. Còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Là mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 17 như thế nào. Thuật bao gồm 3 mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương. Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp" Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1997, tr. 346. Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng và phạt và ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Song song với việc "thưởng hậu, phạt nặng" Hàn Phi còn đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không cần biết đến tước vị của giới quý tộc vì luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện "Pháp" "để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít, người già được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù" Doãn Chính (chủ biên), Sđd, tr. 347. Với nội dung và mục đích như trên "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ. Cùng với "Pháp", "Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy Kiệt làm thiên tử chế ngự được thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp" Doãn Chính (chủ biên), Sđd, tr. 348. "Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Để nâng cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 18 vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng "Nước của bậc minh chủ thì lệnh là cái quý nhất của lời nói, pháp là cái thích hợp của việc làm. Lời nói không có hai cách đều quý, việc làm không có hai cách đều thích hợp cho nên lời nói và việc làm mà không đúng với pháp lệnh thì cấm" Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học phương Đông, Tập I, NXB TPHCM,1991 tr. 105. Sau "Pháp" và "Thế", pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối pháp trị. "Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ chủ yếu của "Thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế" Doãn Chính (chủ biên), Sđd, tr. 349. "Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là: "Chính danh", "Hình danh", "Thực danh". "Thuật" phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi làm ra hình. Nếu hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi người trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết dùng "Thuật". "Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời mà trao việc, cứ theo việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công không xứng việc thì phạt" Doãn Chính (chủ biên), Sđd, tr. 350. 2.2.4 Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người 2.2.4.1 Về quan niệm đạo đức con người Nho gia thể hiện tính nhân bản sâu sắc trong những quan niệm về đạo đức con người. Họ xét đạo đức con người dựa trên hệ thống các phạm trù như : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… Với nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 19 Nho gia. Nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người. Theo Khổng Tử, nhân đó là lòng thương người (ái nhân), còn Mạnh Tử cho rằng nhân đó là lòng trắc ẩn. Nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể điều đó có đem lại lợi ích gì cho người thực hiện việc làm đó hay không (TS. Bùi Văn Mưa – chủ biên (2010), Triết học – Phần I Đại cương về lịch sử triết học, Tiểu ban triết học – Khoa lý luận chính trị - ĐH Kinh tế TP.HCM, tr.59&60). Theo Nho gia thì đạo đức là phương tiện chủ yếu để cai trị đất nước, là điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố và duy trì trật tự xã hội. (TS. Bùi Văn Mưa, Sđd, tr.64). Pháp gia thừa nhận bản tính con người là ác mà không xem xét vấn đề đạo đức con người dựa trên các phạm trù đạo đức như phái Nho gia. Do khẳng định bản tính con người là ác nên theo họ, trong xã hội, người tốt thì ít mà người xấu thì nhiều. Vì vậy để xã hội được yên bình, không thể trông chờ vào số ít người tốt làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị) mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác (bằng cách thực hiện Pháp trị : lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị đất nước, đặt pháp luật một cách rõ ràng và ban bố rộng rãi trong cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh). Vì quá nhấn mạnh đến biện pháp trừng phạt nặng nề, đồng thời thủ tiêu văn hóa, giáo dục và phủ nhận tình cảm, đạo đức con người. …nên phái Pháp gia đã đi ngược lại xu hướng phát triển của văn minh nhân loại (TS. Bùi Văn Mưa, Sđd, tr.75&76). 2.2.4.2 Về xây dựng con người Nho gia quan niệm xây dựng con người theo chuẩn mực đạo đức, đó là tiêu chuẩn của người quân tử : muốn trở thành người quân tử phải tu thân. Để tu thân phải đạt đạo (là con đường phải theo, đó còn là quan hệ mà con người phải biết giữ để biết ứng xử trong cuộc sống). Ngoài đạt đạo, người quân tử phải đạt đức, phải thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp trong cuộc sống, đồng thời phải biết thi, thư, lễ, nhạc (TS. Bùi Văn Mưa, Sđd, tr.63). Lấy tu thân làm gốc nhưng người quân tử phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để hành động Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 20 hiệu quả, người quân tử phải thực hành đường lối nhân trị, đó là cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người, coi người như bản thân mình. Không những thế, người quân tử còn phải chính danh (vua cho ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ).Với mong muốn xây dựng được một xã hội đại đồng, Khổng Tử và các học trò của ông đã đưa ra quan điểm về xây dựng con người như sau: + Vua : mang phẩm chất của người cai trị, phải là người quân tử, không thể là dân võ biền mà phải là người có vốn văn hóa toàn diện. Vua phải hiểu và thực hành đạo đức, khi đó trên dưới sẽ hòa mục. +Tầng lớp nhân dân : lấy hiếu, đễ làm gốc thì từ một nhà nhân hậu sẽ làm cho cả nước nhân hậu. Xã hội khi ấy sẽ thái bình và ổn định, có trật tự kỷ cương, đời sống vật chất đầy đủ, mọi người trong xã hội sẽ được giáo hóa. Quan điểm của Pháp gia trong việc xây dựng con người trong xã hội không như Nho gia : + Vua : là người cai trị không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân, theo nghĩa phải sáng suốt và am hiểu những nguyên tắc pháp trị, và chịu khép mình trong những nguyên tắc đó. Người cai trị phải đặt ra hệ thống luật pháp một cách rõ ràng, ban bố rộng rãi cho mọi người cùng biết để tuân theo. + Tầng lớp nhân dân : hiểu rõ và thực thi nghiêm chỉnh luật pháp đã định. Hàn Phi Tử đòi hỏi vua phải dùng Pháp như trời (nghiêm minh, không vị nể), dùng Thuật như quỷ (linh động, uyển chuyển). Nghĩa là nếu như Pháp được công bố rộng rãi trong nhân dân, bắt buộc họ phải tuân theo thì thuật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn của vua được dấu kín. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài năng, trao đúng chức vụ quyền hạn và loại được kẻ bất tài (TS. Bùi Văn Mưa, Sđd, tr.75&76). Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 21 Chương 3. KẾT LUẬN 3.1 Tổng quát Nho gia và Pháp gia là hai hệ thống tư tưởng bắt nguồn từ thời cổ đại Trung Quốc, sau đó lan ra các nước trong khu vực, có ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm triết học phương Đông, là cơ sở lý luận để xây dựng nền tảng trị quốc dân sinh Hai hệ tư tưởng cùng song song đồng hành và phát triển từ thời Cổ đại cho đến lúc tự chúng không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại. Mặc dù có những quan điểm khác nhau rõ rệt như Pháp trị của Pháp gia và Đức trị của Nho gia về mặt trị quốc, cộng với những mặt không đồng nhất về tư tưởng biện chứng và giáo dục đạo đức, cả hai hệ tư tưởng thực chất lại có những điểm tương đồng, mà phần cốt lõi chính là mục tiêu tồn tại là để hướng xã hội đến hoàn thiện, ổn định và thái bình. So sánh Nho gia và Pháp gia không hẳn đơn thuần chỉ là chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai trường phái mà còn từ đó tìm ra những tư tưởng có thể vận dụng được trong quá trình xây dựng và phát triển của một vùng, một lãnh thổ, hay một quốc gia. Ngoài ra, tư tưởng này còn có thể sử dụng trong một phạm vi nhỏ hơn như một nhóm, một tập thể hay một tổ chức Đối với các nước phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, Nho gia và Pháp gia có tầm ảnh hưởng sâu rộng, lan truyền từ quốc gia này sang quốc gia khác, thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếp nối cho đến tận thời đại hội nhập quốc tế ngày nay thì sự hòa hợp giữa tính nhu trong Nho gia như Trung, Hiếu, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng với sự cứng rắn trong Thuật dùng người, Thuật giao tế cư xử, Thuật giải quyết bất đồng trong cuộc sống thì những quan niệm cốt rễ của Nho gia và Pháp gia mãi trường tồn 3.2 Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Nho giáo đã giữ vị trí độc tôn trong hệ tư tưởng chính thống của dân tộc ta khoảng năm trăm năm. Nó đã có những ảnh hưởng lâu dài và sâu đậm đến truyền thông coi trọng đạo đức của dân tộc ta. Điều này được thể hiện rõ rệt trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống từ lao động sản xuất, chiến đấu, bảo vệ và xây dựng Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa SVTH: Trương Thanh Hải – Đêm 1 – K20 Trang 22 đất nước, đến lối sống, nếp sống, phong tục tập quán, giáo dục, học tập và sáng tác văn học nghệ thuật. Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống coi trọng đạo đức của dân tộc ta và gắn chặt nó vào sự nghiệp cách mạng. Người đã coi đức là một trong những yếu tố quan trọng của công tác lựa chọn và sử dụng nhân tài. Đức và tài luôn gắn liền với nhau. Giữa tài và đức thì theo Hồ Chí Minh, đức là gốc là nền tảng. “ Có tài phải có đức, có tài mà không có đức, tham ô, hủ hóa, có hại cho nước”. “Có tài mà không có đức vi như một anh làm kinh tế, tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa”. “ Con người có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho dân”. Từ đó người đã xây dựng nên đạo đức cách mạng. Nó là vừa là vũ khí tinh thần để những chiến sĩ cách mạng quả cảm vượt qua được đau đớn về thể xác khi bị kẻ thù giam giữ, tra tấn. Trong thời bình, đạo đức cách mạng là kim chỉ nam để hướng cán bộ, đảng viên không bị thoái hóa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng có thể khái quát thành bốn nội dung cơ bản là: Trung với nước, hiếu với dân; Yêu nước thương người, Cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tinh thần quốc tế trong sáng. Trong đó, Trung với nước, hiếu với dân và cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là hai nội dung được Người đề cập nhiều nhất trong các bài nói, bài viết của mình về đạo đức cách mạng. Trung với nước, hiếu với dân. Điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh là: Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào cũng kiên quyết làm đúng đường lối, chính sách và Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, vì hạnh phúc của nhân dân. Cơ sở của tư tưởng này xuất phát từ quan điểm Trung – Hiếu của Nho gia. Trong Nho gia chữ “ Trung” được hiểu là trung với vua, chữ “Hiếu” được hiểu có hiếu với cha mẹ, dòng tộc. Hồ Chí Minh từ quan điểm này đã phát triển, nâng tầm và mở rộng phạm vi của SO SÁNH TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIABạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.62 KB, 29 trang ) MỤC LỤC PHẦN I: MỞ ĐẦU Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn thiện của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây.Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy.Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của triết học Phương Đông thời đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Pháp gia, đây là hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội… Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư tưởng ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội đương thời. Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành bài viết này! Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 2 PHẦN 2: NỘI DUNG Chương I: Khái quát Nho gia và Pháp gia I. Khái quát Nho gia 1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 1.1. Lịch sử hình thành Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có ảnh hưởng rất sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng và nhiều quốc gia phương Đông nói chung. Khổng Tử sáng lập ra nho gia vào cuối thời Xuân Thu rất quan tâm đến vấn đề đạo đức-chính trị- xã hội. Ông xem hoạt động đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để giữ gìn trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân của con người. Đến thời Chiến Quốc, do bất đồng về bản tính con người mà nho gia bị chia thành 8 phái.Trong đó, có phái Tuân Tử và Mạnh Tử là mạnh nhất.Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nho gia nguyên thủy.Vì vậy nho gia ‘’Khổng-Mạnh” được gọi là nho gia nguyên thủy. Nho giáo chi phối đời sống tư tưởng xã hội Trung Quốc qua nhiều triều đại.Nho giáo đã đóng góp lớn vào sự nghiệp tổ chức quản lý xã hội, vào sự nghiệp phát triển văn hóa và giáo dục.Nho giáo đã đóng góp vào quá trình rèn luyện đạo đức cá nhân,đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nho giáo nguyên thủy Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 3 nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. Hán Nho Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiếnTrung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho [cần dẫn nguồn] . Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị". Tống Nho Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị. 1.2. Đặc điểm của Nho gia Nho giáo là sản phẩm của hai nền văn hóa: văn hóa du mục phương Bắc và văn hóa nông nghiệp phương Nam, chính vì thế mà nó mang đặc điểm và chứa đựng những mâu thuẫn của hai loại hình văn hóa này. Mang đặc điểm của tính du mục phương Bắc, Nho giáo mang tính quốc tế, thể hiện ở chỗ mục tiêu cao nhất của người quân tử là bình thiên hạ, việc tìm một đấng minh quân quan trọng hơn việc làm gì cho đất nước của mình. Song song đó, Nho giáo còn mang tính phi dân chủ mà hệ quả của nó chính là tư tưởng bá quyền, coi khinh các Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 4 dân tộc khác, coi mình là trung tâm, coi thường người dân, đặc biệt là phụ nữ. Được thể hiện ở chữ Dũng, Nho giáo mang tính trọng sức mạnh, một trong ba đức mà người quân tử phải có: Nhân, Trí, Dũng. Ngoài ra, với học thuyết Chính Danh, tính nguyên tắc được đề cao trong Nho giáo, tức là tất cả phải có tôn ti, phải làm việc theo đúng bổn phận. Mang đặc điểm của tính nông nghiệp phương Nam, Nho giáo nổi bật bởi sự hài hòa khi đề cao chữ Nhân và nguyên lý Nhân trị. Với cách cư xử trung dung trong Ngũ Luân, Nho giáo mang đặc tính dân chủ, nghĩa là các quan hệ đều thể hiện tính hai chiều, bình đẳng. Bên cạnh những đó, sự coi trọng văn hóa tinh thần được thể hiện trong Kinh Thi cho thấy sự mâu thuẫn giữa tính trọng văn trong văn hóa nông nghiệp phương Nam so với tính trọng võ trong văn hóa du mục phương Bắc. Việc đồng thời dựa vào hai nền văn hóa khiến cho tư tưởng của Khổng Tử không tránh khỏi giằng co và đầy mâu thuẫn. 2. Các quan điểm của Nho gia: Nho gia mà đại diện là Khổng Tử đặt ra những quan điểm về đường lối xây dựng đất nước và quan điểm về đạo đức và giáo dục con người. Đối với việc xây dựng đất nước, Khổng Tử cho rằng một quốc gia muốn thịnh vượng thì người cầm quyền phải thực hiện được ba việc lớn, đó là Thực túc, Binh cường và Dân tín, lúc đó xã hội mới ổn định. Trong ba điều trên thì dân tín là quan trọng nhất vì “dân vi bang bảo”, dân là gốc nước, gốc vững thì nước mới yên. Việc dưỡng dân, giáo dân cũng rất quan trọng để xây dựng một quốc gia. Dưỡng dân hay nuôi dân để dân quý, nước thịnh, còn khi dân được giáo hóa thì dễ sai bảo, dễ trị, nước sẽ yên. Việc giáo dân sẽ được thực hiện bằng cách mở các trường dạy học, dạy dân bằng lễ, nhạc, trong đó lễ để dân biết điều phải mà làm, trọng người trên, nhạc để hòa nhập trên dưới, dạy con hiếu thảo với cha mẹ, thận trọng trong cư xử. Giáo dân không phân biệt giàu nghèo, nghèo không thu học phí. Thông minh thành kẻ sỹ, cao hơn thì thành người quân tử là những người đủ đức tài trong xã hội. Đối với nhà cầm quyền, để giáo hóa dân thì phải tu dưỡng đạo đức cá nhân và dùng Đức trị. Phải làm gương, sửa mình để sửa người. Người trị dân thì phải có đức thì dân mới theo, mới cảm hóa Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 5 được dân. Vua có đức được ví như sao bắc đẩu. Vua phải lấy đức để trị dân, từ đó xã hội ổn định, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, dẫn dắt dân chứ không cưỡng chế trừng phạt. Đối với vấn đề đào tạo con người thì trong xã hội Nho gia phải đào tạo người có vừa đủ đức và tài, với ba loại người là kẻ sỹ, đại trượng phu và quân tử. Trong Nho gia, quan điểm về đạo đức và giáo dục con người bao gồm thuyết Chính danh, tức là phải làm đúng danh phận của mình, không ở vị trí ấy thì không được bàn công việc của vị trí ấy. Danh đi với ngôn, ngôn cũng phải chính, lời nói đi đôi với việc làm, không được nói nhiều làm ít, không được bên ngoài thì kính cẩn, bên trong lại không. Về giáo dục đạo đức con người còn có Nhân là yêu thương người khác, không làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình. Muốn đạt được đức nhân thì phải khắc kỷ, tức là từ bỏ tính tham lam, ích kỷ và phục lễ, tức là hành động theo đạo lý, chân lý. Ngoài Nhân thì con người phải có Trung: vua trung – tôi trung, Hiếu là phải kính yêu cha mẹ và những người lớn tuổi trong nhà, Nghĩa là thấy việc gì đáng làm phải làm, không hề mưu tính lợi ích cá nhân, Trí là sự minh mẫn sáng suốt, biến nhận thức đúng sai, muốn có trí phải học, không học thì dù thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu dốt làm biến chất, Dũng là lòng can đảm, là sức mạnh để làm chủ tình thế, hiểu rõ chân lý và bảo vệ chân lý, Lễ là những nghi thức nhất định trong tế lễ, là kỷ cương của xã hội, những qui phạm đạo đức, qui tắc cư xử hàng ngày. Trong hệ tư tưởng Nho giáo, năm mối quan hệ mà con người phải xác định và làm tròn trách nhiệm của mình là Ngũ luân: quân – thần (vua phải minh thần phải trung), phu – tử (cha phải từ con phải hiếu), phu – phụ (chồng trọn nghĩa vợ trọn trinh), huynh – đệ (anh em như thể tay chân), bằng – hữu (bạn bè phải lấy tín thành mà đối đãi nhau) II. Khái quát Pháp gia 1. Lịch sử hình thành và đặc điểm Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 6 tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay. Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Quản Trọng là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởngTrung Quốc thời Xuân ThuÔng nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn. Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua việc tiến hành rất nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông, người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Quản Trọng được đánh giá là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia. Sang nữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển. Thương Ưởngđược vua Tần tin dùng áp dụng chính sách Pháp trị của mình coi trọng hiến pháp, chủtrương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các chính sách khuyến khíchdân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại chủ trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo chủ trương dùng thế, Ngô Khởi cho rằng muốn làm cho nước mạnh phải biết đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình. Cuối cùng phải kể đến Hàn Philà học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp gia, Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, cho rằng con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 7 trị” của Đạo gia như trước nữa mà phải dùng Pháp trị. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ. 2. Các quan điểm của Pháp gia: Quan điểm của Pháp gia trước hết là quan điểm về đường lối xây dựng đất nước và tư tưởng biện chứng của nó. Về đường lối xây dựng đất nước, trị nước phải kết hợp các sáu yếu tố: pháp luật, hình phạt, nông nghiệp, chiến tranh, nghệ thuật, thế lực. Về nông nghiệp thì tập trung phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán, tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội mạnh; về chiến tranh, phái Pháp gia chủ trương xây dựng quân đội mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh. Thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược, khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào. Thế là địa vị, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa vào thế mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn Về tư tưởng biện chứng trong hệ thống tư tưởng của Pháp gia là Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Đây được gọi là quan điểm thời biến, mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi để phù hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn. Ngoài ra Hàn Phi Tử còn thừa nhận sự tồn tại của lý tính quy luật hay những lực lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 8 Chương II: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia I. Sự tương đồng giữa Nho gia và Pháp gia Tiến hành so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta nhận thấy có những điểm tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh hưởng này như sau: Trước hết là đề cập đến mục đích của hai trường phái Nho gia và pháp gia đều mang tinh thần muốn xây dựng một xã hội thái bình, đất nước ấm no và giàu mạnh. Mặc dù quan điểm của hai trường phái có nhiều điểm khác nhau nhưng những mong muốn và mục tiêu của cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều là giải quyết tình trạng hỗn loạn, ổn định và phát triển quốc gia ngày một hùng cường. Thứ hai là liên quan đến tư tưởng hai phái Nho gia và Pháp gia có những nét khác nhau, nhưng một số công cụ được sử dụng trong quá trình điều hành đất nước của những nhà cầm quyền có những nét tương đồng. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Thực túc, thì trong Pháp gia chính là Nông nghiệp, cụ thể là phát triển nông nghiệp, tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội mạnh. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Binh Cường, thì trong Pháp gia chính là Chiến tranh, cụ thể là xây dựng quân đội mạnh, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh. Tuân Tử - người chủ trương phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật, một trong hai bậc thầy Nho gia thời Chiến quốc, cùng với Mạnh Tử, cho rằng bản tính con người là ác (nhân chi sơ tính bổn ác) vì con người vốn sẵn có lòng ham lợi, để thỏa mãn những ham muốn, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên của mình nên dẫn đến tình trạng tranh giành, cướp đoạt của nhau dẫn đến chiến tranh. Còn theo Hàn Phi Tử, người học trò của Tuân Tử, theo trường phái triết học Pháp gia cũng có cùng quan điểm với thầy mình khi quan niệm “tính người” là ác, đưa ra học thuyết cá nhân vị lợi, con người luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 9 Nho gia và Pháp gia đều là những tư tưởng trị quốc có ý nghĩa và được vận dụng sâu rộng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, có lịch sử lâu dài và có ảnh hưởng đến các quốc gia Á Đông khác, không chỉ bao hàm nội tại trong xã hội Trung Quốc mà còn lan sang tận các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam phát triển bền bĩ, được hoàn thiện liên tục và có ý nghĩa cho đến tận ngày nay. Cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền. Đối với Nho gia, nhà cầm quyền có những tố chất để vừa làm gương cho dân, vừa dùng Đức trị để dưỡng dân, giáo dân. Nhà cầm quyền giống như vì sao Bắc Đẩu để dân soi đường và học tập. Để dân tin dân tín, nhà cầm quyền không những phải sáng suốt, hiểu cao biết rộng mà còn phải biết cách trị nước, an dân, dùng Nhân để hướng lòng dân về một mối. Song song đó, Pháp gia mặc dù sử dụng phương pháp trị nước khác với nho gia nhưng cũng chủ trương cần một đấng minh quân, một nhà cầm quyền am hiểu nguyên tắc cai trị đất nước Cùng nhìn nhận cấu trúc xã hội với những bất bình đẳng như một thực tế đã định và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Hòa hợp xã hội đồng nghĩa với việc cá nhân thuận theo xã hội. Thực tế của xã hội luôn luôn có kẻ giàu, người nghèo, luôn có người quân tử và kẻ tiểu nhân, các thứ bậc trong xã hội là một tất yếu mà mỗi một cá nhân trong xã hội phải thuận. Mỗi cá nhân không được nằm ngoài vòng tròn thực tại của xã hội, vì mỗi một cá nhân là mỗi yếu tố cấu thành xã hội. Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức – xã hội mà thời đại lúc bấy giờ đã đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định. Trong Nho gia, dựa vào lợi ích của giai cấp thống trị đã đưa ra các tư tưởng về Tam Cương, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức, tạo thành một hệ thống tư tưởng phục vụ cho giá trị dương trong thuyết âm dương ngũ hành, hay cho lễ giáo theo trật tự đã định trong xã hội. Nho gia sử dụng phương cách Nhân trị để thu phục lòng dân thì Pháp gia sử dụng pháp trị để giải quyết thực tiễn xã hội. Cuối cùng, mặc dù cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều có những thời kỳ phát triển rực rỡ và hưng thịnh nhưng cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ lâm vào bế Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 10 tắc. Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh – Thanh thì trở nên khắt khe và bảo thủ. Sang thế kỷ XIX thì Nho giáo đã thật sự trở nên già cỗi, không còn sức sống Chính vì tính phục cổ và bảo thủ mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp với trào lưu văn minh của thế giới. Chính điều này đã khiến Nho giáo dần dần không phù hợp. Đối với Pháp gia, một minh chứng có thể dẫn dụ cho tình trạng bế tắc của hệ tư tưởng này chính là Nhà Tần. Trong thời đại hỗn loạn, việc chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn khiến nước Tần trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng do quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục đi ngược lại với xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. Vì vậy, sau khi đã thống nhất được đất nước, nước Tần vẫn triệt dể thực hành pháp trị mà dẫn đến mất nước. II. Sự khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 1. Trị quốc Đối với hệ tư tưởng Nho gia, Khổng Tử đề xuất đường lối “Đức trị” – đường lối trị nước bằng đạo đức, mang bản sắc của chính người đề xuất ra nó. Nội dung đường lối “Đức trị” là thực hiện 3 điều: dân đông kinh tế phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong công việc, giữ gìn chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức dân hợp lý Cơ sở tư tưởng “Đức trị” của ông suy đến cùng là lòng thương yêu con người, lòng tin ở bản tính con người có thể cảm hóa được. Ông quan niệm phép trị dân thì không cần dùng đến biện pháp giết người. Trước sau gì Khổng Tử đều muốn lấy đạo đức mà cảm hóa người hơn là dùng hình pháp mà trị người. Còn Mạnh Tử chủ trương thực hành đường lối “Đức trị” dựa trên tinh thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh có nghĩa là dân quý nhất, kế đến là đất nước và lúa gạo, còn vua là cái quý sau cùng) Khổng Tử cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là do không “chính danh”. “Chính danh” là làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy, cứ thể mà làm, nếu không “chính danh” thì lời nói sẽ không đúng đắn dẫn đến việc thi hành sai. Khổng Tử cho rằng: danh không Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 11 chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ, nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng thì hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu vào đâu? Theo Mạnh Tử thì cai trị đất nước bằng “Đức trị” và thực hành chính danh để xây dựng một xã hội đại đồng. Có thể khái quát như sau: cơ sở gia đình, nền tảng xã hội không phải là những quan hệ kinh tế, xã hội mà là quan hệ đạo đức, chính trị, đặc biệt là quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi, chồng ra chồng, vợ ra vợ thì xã hội ổn định, gia đình yên vui. Nếu không chính danh, tức vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra chồng thì luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lỏng lẻo. Khổng Tử cũng phản đối nhà cầm quyền dùng luật pháp để cai trị dân. Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sĩ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sĩ và thực lòng quy phục. Như trong Luận Ngữ, ông đã nói: “dùng chính lệnh mà khiến, dùng hình pháp mà tề nhát thì dân khỏi tội nhưng không có lòng hổ thẹn, dùng đức mà khiến, dùng lễ mà tề nhất, thì dân có lòng hổ thẹn, lại cố làm điều hay”. Ngược lại với Nho gia đề cao “Đức trị”, Pháp gia đề cao Pháp trị, tức cai trị bằng Pháp luật. Nếu như Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề cao “Thuật”, Thương Ưởng đề cao “Pháp” thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng, “Thế”, “Thuật”, “Pháp” là ba yếu tố thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Hàn Phi Tử coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật: pháp luật phải nghiêm minh, không phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật trong đó “Thế” là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, “Thuật” là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị, còn “Pháp” là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 12 Hàn Phi Tử cho rằng, khi thực hành pháp trị thì phải xét tới các nguyên tắc sau: thứ nhất, tính tư lợi: nền tảng quan hệ giữa con người với con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình, thứ hai, hợp với thời thế: đối với Hàn Phi, không có một pháp luật siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng để mà noi theo. Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn, thứ ba: ổn định, thống nhất, tức là mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiền thay đổi, thứ tư: phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm, thứ năm: đơn giản mà đầy đủ, thứ sáu: thưởng hậu phạt nặng, thứ bảy: vua phải nắm hết quyền thưởng phạt. Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là: thứ nhất, tăng cường giáo dục pháp chế, thứ hai: mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, thứ ba: nghiêm khắc cẩn thận, không được tùy ý thưởng cho người không có công, vô cớ sát hại người vô tôi, thứ tư: dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật. “Thế” được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Theo Hàn Phi Tử, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân: “chỉ có bận hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy”. Muốn thi hành pháp luật phải có thế. Thế không chỉ là địa vị quyền uy của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước. Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế, đề phòng đại thần tiến quyền. Nếu xét về bản thân vua, thì thế là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhât, còn pháp và thuật chỉ là công cụ. Sau Pháp và Thế, Thuật là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật còn thể hiện trong thuật dùng người. Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là chính danh, hình danh và thực danh. Mọi người trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết dùng Thuật. Bề tôi Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 13 tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời mà giao việc, cứ theo việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng, công không xứng việc thì phạt. Ngoài ba công cụ trị nước Pháp, Thế, Thuật đã nêu trên, Pháp gia hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ. Tư tưởng Pháp trị của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng, nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn trị quốc bình thiên hạ được. Khổng tử và Mặc tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn, đều noi theo đường lối trị nước của Nghiêu, Thuấn mặc dù chủ trương của Khổng Tử và Mặc Tử khác nhau nhưng cả hai đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Trong khi đó đời Ân, đời Chu tồn tại đã hơn bảy trăm năm về trước, lấy gì làm bằng cứ xác thực. Chính vì vậy, theo Pháp gia phương pháp trị nước đúng đắn và hữu hiệu nhất, phù hợp với điều kiện lịch sử thời Xuân thu chiến quốc chỉ là phương pháp pháp trị mà thôi. 2. Tố chất của nhà cầm quyền Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền, Khổng Tử cho rằng nền tảng của việc cai trị đất nước chính là tự chế ước bản thân nên ông làm hết sức để nhằm mục đích cho người quân tử cai trị đất nước. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn của người quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần phải tu thân. Để tu thân cần phải đạt đạo mà trước hết là đạo quân – thần, phụ - tử, phu – phụ (sau này Đổng Trọng Thư gọi là tam cương, và mở rộng thành ngũ luân (quân – thần, phụ - tử, phu – phụ, huynh – đệ, bằng – hữu) và cần phải đạt đức, đồng thời phải biết thi, thư, lễ, nhạc. Lấy tu thân – thái độ ứng xử đúng đắn trong gia đình (thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình), phải luôn tu sửa thân mình để làm cho mình xứng đáng với vị trí là một thành viên trong gia đình “cha nên cha, con nên con, anh nên anh, em nên em, chồng nên chồng, vợ nên vợ, ấy là gia đạo chính”. Đặc biệt trong hai quan hệ cha – con, quan hệ anh – em phải thể hiện hai đức Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 14 hiếu và đễ, chúng là gốc của đức nhân. Tu thân tiếp theo là thực hành trách nhiệm với nước. Từ phụng sự cha mẹ người ta nâng lên phụng sự nhà vua, từ những phép tắc trong nhà người ta suy rộng và vận dụng vào việc xây dựng thể chế, nghi thức và tổ chức bộ máy cai trị và trật tự tôn ti trong cả nước. Nho giáo đã đem gắn chặt nước với nhà, coi tề gia là tiền đề của trị quốc. Nói tới nước, là nói tới vua, vua có sứ mệnh lớn là cai trị đất nước. Để trị nước họ phải trau dồi đức nhân Phái Nho gia hiểu là sự cai trị đất nước đặt trên cơ sở bản thân nhà cầm quyền, sự hưng suy của xã hội đều do nơi giá trị bản thân của những người cầm quyền mà ra và vấn đề cốt lõi tập trung ở chỗ làm sao cho người cai trị có đủ tài đức, nghĩa là bên cạnh khả năng, nhà cầm quyền phải có đủ đức hạnh. Thuyết nhân trị còn được hiểu là cách cai trị, theo đó, nhà cầm quyền phải lấy đạo đức mà giáo hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng đến cưỡng chế, trừng phạt. Vài trò đạo đức theo Nho giáo là phương tiện chủ yêu để cai trị đất nước, là điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố và duy trị trật tự xã hội. Biện pháp cơ bản để thực hiện nhân trị, là chính danh, lễ, vai trò tài đức của người cầm quyền và vai trò của dân với ý nghĩa là gốc là nền tảng của chính trị. Khổng Tử đã từng nói: “Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng” (sách Luận Ngữ) nghĩa là bản thân mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì người khác cũng thi hành, còn nếu bản thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì người khác cũng không tuân theo. Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua đều phải như Nghiêu Thuấn nhưng theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt được qua “lễ” (Khắc kỷ phục lễ vi nhân) Theo quan điểm của Hàn Phi thì cho rằng nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng. Ông cho rằng bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 15 nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô đọc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau Phái Pháp gia ban đầu đều cho rằng nhà cầm quyền – hoàng đế với tư cách người đứng đầu quốc gia luôn gắn liền với “sự bí ẩn của chính quyền”, và như thế những quyết định của chính quyền buộc người dân phải kính trọng và tuân thủ. Nhà vua đại diện cho tính chính thống. Khi nhấn mạnh quyền lực của vương quyền, những người pháp gia như Thận Đáo và Thân Bất Hại tìm cách làm giảm tầm quan trọng của một nhà cai trị có đạo đức đối với nhân dân. Vì thế, thần dân bắt buộc phải tuân theo những mệnh lệnh dù là đê hèn, tàn nhẫn nhất hay những vị ua cai trụ dù là bất tài nhất. Những nhà cai trị tài năng được tôn kính, những nhà cai trị khôn khéo thì giữ kín mình. Vì vậy, theo lý thuyết, bằng cách che dấu đi những mong ước, những ý định của mình, vị vua của pháp gia biết được kẻ nịnh bợ và buộc quan lại phải lưu ý về tính độc tài của chính quyền. Trong khi Thương Ưởng vẫn để cho những vị vua cai trị say đắm vào nữ nhạc hơn là chú tâm tới chính sách đối ngoại, Hàn Phi Tử lại yêu cầu một nhà cai trị khôn ngoan. Một lãnh đạo giỏi, theo các tiêu chuẩn của Hàn Phi Tử, phải biết từ chối chấp nhận lời đề nghị của những vị quan trung thành khi chúng có sai sót, nhưng cũng phải tỏ ra nhã nhặn với những kẻ dưới quyền và không quá tham lam. Vị vua cai trị tài giỏi cũng phải hiểu được tầm quan trọng của sự khắt khe ngay cả khi đang rộng lượng. Mặc dù mong rằng nhà vua cai trị không phải là gia trưởng, Pháp gia nhấn mạnh rằng tỏ ra quá nhân đức có thể làm hại đến tính quần chúng và đe dọa trật tự bên trong của quốc gia. Theo nhà sử học vĩ đại thời Hán là Tư Mã Thiên (145 – 86 TCN), trong khi vị Hoàng đế đầu tiên nhà Tần giấu mình khỏi thế giới (có lẽ vì muốn đạt tới bất tử) và vì thế ít được biết đến, ông lại không cần phải theo mọi đề xuất của Pháp gia trong vai trò của nhà cai trị. Trong khi các nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính phổ quát nhất đinh, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 16 Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình. Thuyết Pháp trị của Hàn phi chủ trương nhà cầm quyền không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho rõ ràng và ban bố cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chính. Muốn thi hành được các chủ trương của phái Pháp gia nêu ra, xã hội cũng cần có một đấng minh quân, một nhà vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình theo nguyên tắc đó. 3. Tư tưởng biện chứng Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia điều hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho xã hội phát triển theo đúng hướng của nó. Còn Nho gia không đề cập đến điều này Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có chế độ xã hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người, nên trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người, lương tri, lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải biết kính trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời. Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và nâng cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông vua mà thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất biến, Đạo diệc bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay đổi). Khổng Tử dựa vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính danh Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 17 Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu vốn đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể không cúi đầu trước con trời (Thiên tử) Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con người một khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để chuyển sang thần phục trước “siêu người” Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là do trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù hợp với cái Danh. 4. Giáo dục, đạo đức Khác với các nhà tư tưởng thuộc các học phái khác nói chung và Pháp gia của Hàn Phi Tử nói riêng, tư tưởng Nho gia mà đại diện là Khổng Tử rất đề cao việc học tập, tu dưỡng đạo đức và là nhà giáo dục danh tiếng bậc nhất. Về ý nghĩa của giáo dục, Khổng Tử cho rằng giáo dục có ý nghĩa phổ biến, giáo dục làm con người mở mang tri thức, hình thành nhân cách đầy đủ cả ba mặt nhân, trí, dũng, đem điều đã học ra ứng dụng đem lại lợi ích cho đời. Ông cho rằng làm vua quan cũng phải học, làm ruộng vườn cũng phải học chứ không thể dựa vào cảm tính và lòng nhiệt thành. Về nội dung dạy học thì Khổng Tử rất coi trọng giáo dục đạo đức, dùng đạo đức để thi hành chính sự. Ông ít quan tâm đến các kiến thức khác nhưng không vì thế mà ông coi khinh những tri thức kỹ thuật cụ thể, đặc biệt Khổng Tử rất để cao Nhạc và Thi. “Nhạc chính trực, trang nghiêm, hòa nhã, có tác dụng di dưỡng tính tình, cảm hóa lòng người, hướng tâm con người tới chân, thiện, mỹ, do sự cảm ứng trong tâm với sự hài hòa với âm nhạc”(trích Luận Ngữ). Khổng Tử đề cao kinh Thi: “Thi có thể làm phấn khởi ý chí, có thể giúp quan sát phong tục hòa hợp với mọi người, bày tỏ nỗi sầu oán, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại biết được tên chim muông cây cỏ” (trích Luận Ngữ). Cho nên, Khổng Tử nói: “hưng khởi là nhờ Thi, tạo lập là nhờ Lễ, thành đạt là nhờ Nhạc”. Vì thế, Khổng Tử dành nhiều công sức để sưu tập, chỉnh lý di sản văn hóa Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 18 cổ (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Nhạc, Kinh Lễ, Kinh Dịch) và chính ông biên soạn Kinh Xuân Thu. Sau này những sách này trở thành những sách kinh điển của nho gia. Về Phương pháp giáo dục, Khổng Tử coi trọng kinh nghiệm thực tế, nhấn mạnh vai trò của việc suy nghĩ tìm tòi, cố gắng của chủ quan, kết hợp học và hành, thấy được mối quan hệ khăng khít giữa người dạy và người học: “Kẻ nào không cố công tìm hiểu ta chẳng dạy cho, kẻ nào không bộc lộ được tư tưởng của mình, ta chẳng khai sáng cho, kẻ nào ta bày một mà không biết hai, ta chẳng dạy nữa”. Ông luôn khuyên mọi người học phải nghe nhiều rồi chọn điều hay mà theo, thấy nhiều để xét rõ cái hay cái dở mà nhớ lấy, đó là điều quan trọng để trở thành trí giả. Về mẫu hình con người mà Khổng Tử đào tạo là những sĩ quân tử, những con người có thể thay mình hành đạo ở đời, những quan chức phục vụ các vương triều quý tộc theo thuyết “chính danh” và chủ trương “Đức trị”, “Lễ giáo”, là những con người sẵn sàng phục vụ chế độ có chính sách “tôn hiền”, “nhiệm năng” và “cử trực” do ông đề xướng. Đối với thuyết Chính danh: Khổng Tử đưa ra học thuyết này nhằm ổn định trật tự xã hội, theo ông, danh với thực phải hợp nhau, nếu không hợp nhau thì gọi tên ra người ta sẽ không hiểu, lý luận sẽ không xuôi, mọi việc sẽ không thành, lễ nhạc, hình pháp không định được mà xã hội sẽ hỗn loạn. Người nào mang danh nào phải thực hiện những tiêu chuẩn của danh đó nếu không phải gọi bằng danh khác. Khi danh tự đã chính thì việc gì có nghĩa lý của việc ấy, khi danh tự đã định rõ thì người nào có địa vị chính đáng của người ấy, trên ra trên, dưới ra dưới, trật tự phân minh Đối với Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí thì khái niệm Nhân được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần và tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà Nhân được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa sâu rộng nhất, Nhân là một nguyên tắc đạo đức trong triết học Khổng Tử. Nhân được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua lễ, nghĩa, quy định quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. Nhân có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác trong triết học Khổng Tử để làm nên một hệ thống nhất quán, chặt chẽ và do vậy, đã có người cho rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì Nhân là tâm Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 19 điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người. Nhân cũng có thể hiểu là “trung thứ” tức là đạo đối người, nhưng cũng là đạo đối với mình nữa. Trong quan niệm của Khổng Tử, Nhân không chỉ là yêu người, thương người, mà còn là đức hoàn thiện của con người, và do vậy nhân chính là đạo làm người, sống với mình và sống với người, đức nhân là cái bền vững như núi sông. Đối với Lễ, bao gồm nghi thức lễ tế, phong tục tập quán được xã hội thừa nhận, quyền hành của người trị nước và cách tiết chế hành vi của người dân. Giáo dục Lễ nhằm bốn chủ đích: hàm dưỡng tính tình để tình cảm được trọng hậu, làm gốc cho đạo nhân, giữ tình cảm sao cho trung dung, xác định phân minh lẽ phải trái, tình thân sơ, trật tự trên dưới, tiết chế những thường tình dung tục của con người. Khổng Tử cho rằng, chỉ có cách tuân giữ Lễ như những luật tắc giao tế xã hội ta mới có khả năng thành tựu Nhân, một cách căn bản, chính nghi lễ và nghi thức làm cho cuộc sống quân bình. Khổng Tử nhiều lần nhấn mạnh đến Lễ như một phương cách củng cố tôn ti trật tự của xã hội. Mỗi cá nhân đều có Lễ thích đáng cho địa vị xã hội của mình. Song song với Lễ là Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì phải làm, không mưu tính lợi của cá nhân mình. Còn Trí trước hết là biết người, có hiểu biết sáng suốt mới biết cách giúp người mà không làm hại cho người. Trí có lợi cho Nhân, cho nên khi Khổng Tử nói đến người Nhân – quân tử, bao giờ cũng chú trọng tới khả năng hiểu người, dùng người của họ. Phải sáng suốt mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghét. 5. Nhân sinh, bản thể Quan niệm về vấn đề con người cũng như bản chất của nó, cả hai trường phái Nho gia và Pháp gia có những quan niệm riêng. Mỗi trường phái thể hiện cách nhìn nhận về nhân sinh, bản thể khác nhau. Nếu như phái Nho gia xem con người hướng theo tính thiện thì Pháp gia lại xem con người hướng theo tính ác. Theo Khổng Tử, bản tính con người vốn nhân từ. Đạo người có Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Dũng, Tín, trong đó Nhân được nhắc đến và là trung tâm của Đạo. Còn Pháp gia thì lại cho rằng bản tính con người là ác, người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội bình yên, không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 20 thiện mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc khéo hút mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ cỗ xe có lòng nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi của anh ta là ở chỗ người ta chết”. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn cái hại. Nho gia cho rằng bản chất con người là không lười biếng. Còn Pháp gia thì cho rằng bản chất con người là lười biếng. Con người khi có dư ăn rồi thì không muốn làm gì nữa. Hàn Phi đã nói: loài người thời ăn lông ở lổ chắc chắn là như vậy. Một người “esquimau” (thỏ dân Bắc Mỹ sống gần Bắc cực) bảo: “khi tôi dư thịt ăn rồi thì tôi chẳng nghĩ tới gì cả”. Và theo ông Loskiel thì một bộ lạc láng giềng sẽ chia lương thực cho họ. Những bộ lạc này thấy người siêng năng cứ phải nuôi báo cô kẻ làm biếng, nên ngày càng trồng trọt ít đi. Theo Nho gia, bản tính con người phụ thuộc nhiều vào giáo hóa bằng lễ, nghĩa, đặt tài đức lên trên địa vị, phải có tài đức tới một mức nào đó thì mới xứng đáng với địa vị, mới không làm hại dân. Còn theo Pháp gia, bản tính con người là chỉ phục tùng quyền lực mà thôi. Đặt địa vị, quyền thế lên trên tài đức, miễn là tài đức trung bình mà có quyền thế là trị nước được rồi. Về khía cạnh bản thể, Nho gia cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được mà nền tảng tận cùng của trật tự đó là thiên mệnh. Còn Pháp gia thì thừa nhận sự tồn tại của Lý: tính quy luật hay những lực lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi hoạt động của tự nhiên và xã hội. Con người phải nắm lấy cái Lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 21 Chương III: Ảnh hưởng, Vận dụng của Tư tưởng Nho gia Pháp gia vào xây dựng đất nước Việt Nam I. Ảnh hưởng và vận dụng của tư tưởng nho gia đến văn hoá Việt Nam Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam. Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia. Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Cả nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam. Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn. Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 22 Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân. Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo. Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển. Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt. Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau. Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược. Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 23 quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành động. Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua. Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc. Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai. Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niềm tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc. Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới.Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 24 Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo.Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà Người đã sử dụng đã đề cập đến việc Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc các phạm trù đạo đức của Nho giáo như nhân, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu, dũng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư trong việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho con người Việt Nam II. Vận dụng tư tưởng pháp gia vào việc xây dựng đất nước Việt Nam Tư tưởng Pháp gia ra đời nhằm đưa ra những phương cách giải quyết cho các vấn đề thực tiễn chính trị, xây dựng kỹ cương đất nước . Pháp gia phục vụ cho những mục đích nhất định mà phần lớn là phục vụ cho tầng lớp thống trị. Tư tưởng Pháp gia đã nói không có gì là bất biến, mỗi một xã hội lại phù hợp với một chủ trương, chính sách khác nhau. Xuất hiện từ rất lâu đời pháp gia là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử Trung Quốc thời cổ đại, có giá trị lịch sử lâu dài và được nhiều nước phương Đông áp dụng, trong đó có cả Việt Nam. Hồ Chí Minhđã vận dụng Pháp gia rất thành công trong cuộc đấu tranh và giải phóng dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng của lớp lớp đời đời con cháu Việt Nam noi theo. Đối với việc vận dụng Pháp trị, Hồ Chí Minh cho rằng quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại. Xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người, Hồ Chí Minh chủ trương tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ máy, cơ quan nhà nước, môi trường pháp lý phải bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng Hiến pháp vì trong nhận thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của chế độ xã hội có những giá trị nhân bản chung mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Hồ Chí Minh đã nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa của nó. Sau năm 1954, khi đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, Hồ Chí Minh chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới – Hiến pháp 1959. Dựa theo tư tưởng biện chứng của Hàn Phi Tử là thời biến pháp biến, một khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi thì pháp luật cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều Tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN QUANG QUÂN TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội-2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN QUANG QUÂN TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: TRIẾT HỌC Mã số: 60.22.80. Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH BÌNH Hà Nội-2013 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 7 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................. 7 6. Đóp góp của luận văn .................................................................................. 8 7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 8 Chương 1: TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA. . 9 1.1. Bối cảnh kinh tế-xã hội và tiền đề tư tưởng hình thành tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia. ................................................................................. 9 1.2. Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng trị nước của Nho gia. .............. 19 1.3. Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng trị nước của Pháp gia (chủ yếu trong sách Hàn Phi tử) .................................................................................... 37 Chương 2: Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. ........................................................ 59 2.1. Khái niệm công vụ và đạo đức công vụ ở Việt Nam. .............................. 59 2.2. Thực trạng đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. ..................................... 69 2.3. Kế thừa và phát huy tư tưởng Đức trị của Nho gia và Pháp trị của Pháp gia trong việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. . 84 2.4. Một số biện pháp chủ yếu nhằm phát huy đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. .................................................................................................................. 93 KẾT LUẬN………………………………………………………………..104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………..107 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Cai trị và quản lý xã hội luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia ở mọi thời đại. Ngay từ thời cổ đại, các triết gia Trung Quốc đã nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức và pháp luật trong việc cai trị, quản lý xã hội, thiết lập trật tự xã hội ,...để từ đó đề xướng các học thuyết “Đức trị” và “Pháp trị”. Những học thuyết ấy đã vượt ra khỏi phạm vi Trung Quốc và có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia phương Đông suốt hai nghìn năm trong đó có Việt Nam. Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của việc trị nước, các triều đại đã kế thừa, tiếp thu nhiều tư tưởng về đường lối trị nước của Trung Quốc. Tuy nhiên, do sự tác động của nhiều yếu tố, của truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc, đặc biệt là từ nhu cầu, nhiệm vụ của công cuộc dựng nước và giữ nước, tư tưởng về đường lối trị nước của Việt Nam có những nét sáng tạo, độc đáo riêng, không hoàn toàn giống như Trung Quốc. Ở Việt Nam hiện nay, trong việc quản lý xã hội nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước về mọi mặt nói chung nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, chúng ta có thể kế thừa nhiều giá trị của những học thuyết, tư tưởng và nhiều bài học, kinh nghiệm trong công cuộc dựng nước và giữ nước của cha ông ta trong lịch sử. Nho giáo là một học thuyết chính trị-xã hội ra đời ở Trung Quốc, tư tưởng trị nước bao trùm trong học thuyết Nho giáo là tư tưởng Đức trị. Các nhà nho từ Khổng Tử trở đi đều đề cao vai trò của đạo đức, coi đạo đức là công cụ, phương tiện hữu hiệu nhất của các triều đại phong kiến Trung Hoa trong việc trị nước, trị dân và quản lý xã hội vì những mục đích chính trị của mình. 5 Pháp gia cũng là một trong những trường phái tư tưởng lớn nhất của Trung Quốc cổ đại. Khác với đường lối trị nước của Nho gia, Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để “trị quốc, bình thiên hạ”. Các nhà tư tưởng của phái Pháp gia đã thấy rõ vai trò to lớn của pháp luật đối với việc trị nước. Tư tưởng trị nước của phái này là Pháp trị. Cả hai học thuyết Nho gia và Pháp gia đều đề xuất ra phương pháp trị nước khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu là đưa xã hội Trung Quốc từ “vô đạo” trở thành “hữu đạo”. Mỗi một phương thức trị nước ấy, có mặt tích cực và hạn chế nhất định trong lịch sử. Do vậy, trong quá trình kế thừa, tiếp thu tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia, chúng ta phải biết kết hợp chúng lại với nhau, tức là kết hợp cả Đức trị và Pháp trị một cách nhuần nhuyễn, biện chứng để phát huy tính tích cực của nó nhằm thực hiện những mục đích trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ở nước ta hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đó là một nhà nước hoạt động trên tinh thần pháp luật, đề cao pháp luật, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật và pháp luật trở thành công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức am hiểu pháp luật, có năng lực quản lý và đạo đức, đáp ứng tốt những yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, kinh tế thị trường đã từng bước hình thành và phát triển, nó tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là đến đạo đức công vụ trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Việc xuất hiện ngày càng nhiều những hiện tượng tiêu cực trong việc thực thi đạo đức công vụ: chống người thi hành công vụ, tội phạm ngày càng tăng, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền đang trở thành “mốt thời đại”, nhiều giá trị xã hội bị đảo lộn, sự mất 6 phương hướng, tệ sùng ngoại...đang là những vấn đề đáng lo ngại của xã hội. Đặc biệt là sự thoái hóa, biến chất về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, sự quan liêu của bộ máy nhà nước đang trở thành những nguy cơ lớn đến sự tồn vong của chế độ. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch không ngừng tìm mọi cách phá hoại với những thủ đoạn thâm độc và ngày càng tinh vi hơn. Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay sẽ cung cấp và luận chứng cho chúng ta tiếp thu, kế thừa những yếu tố tích cực của nó để góp phần xây dựng nền đạo đức và pháp luật mới, hoàn thiện đạo đức con người nhằm phát huy nội lực của con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước một cách vững chắc, tiến cùng thời đại, đồng thời phê phán và khắc phục những biểu hiện tiêu cực đang tồn tại trong nhiều mặt, nhiều lĩnh vực ở nước ta hiện nay. Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay.” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có thể nói, Nho gia và Pháp gia nói chung, tư tưởng Đức trị của Nho gia và tư tưởng Pháp trị của phái Pháp gia nói riêng đã thu hút nhiều người, nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu với nhiều công trình, nhiều hội nghị, hội thảo trong và ngoài nước. Đặc biệt là ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề đó càng được quan tâm thêm và nhiều hơn trong nghiên cứu và giảng dạy Nho gia và Pháp gia. Liên quan đến đề tài của luận văn, trước hết, là các công trình đi sâu vào nghiên cứu từng lĩnh vực hay từng phạm trù cụ thể trong học thuyết Nho giáo. Các tác giả đi theo hướng này đề cập đến tư tưởng của Nho gia về giáo dục, 7 luân lý, đạo đức và vai trò của nó đối với xã hội và với con người. Có thể kể đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: Trong “Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến nửa thế kỷ XIX) của Nguyễn Thanh Bình, tác giả đã nghiên cứu Nho giáo chủ yếu với tư cách là một học thuyết chính trị-xã hội, được các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp nhận và sử dụng làm hệ tư tưởng, công cụ cai trị và quản lý xã hội, trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thực tiễn đặt ra cho các triều đại phong kiến và dân tộc. Tác giả cho rằng, học thuyết chính trị-xã hội của Nho giáo là căn cứ chủ yếu để thi hành đường lối Đức trị, xây dựng và thực thi pháp luật. Theo đó, các phạm trù Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hiếu, Trung...không chỉ là những phạm trù đạo đức mà còn là công cụ chính trị chủ yếu để cai trị và quản lý xã hội. Các cuốn sách như: “Nho giáo xưa và nay” của Quang Đạm, “Nho giáo và đạo đức” của Vũ Khiêu, “Nho học và Nho học ở Việt Nam” của Nguyễn Tài Thư và “Đến hiện đại từ truyền thống” của Trần Đình Hượu đã đề cập đến nội dung của tư tưởng Đức trị với tư cách là điểm xuất phát, thực chất của Nho giáo. Đặc biệt, trong cuốn sách “Đức trị và Pháp trị trong Nho giáo”, GS Vũ Khiêu đã trình bày sự thống nhất biện chứng giữa Đức trị và Pháp trị trong hệ tư tưởng Nho giáo, coi chúng là hai mặt của một vấn đề. Tác giả chú ý đến nội dung và ảnh hưởng của Đức trị trong đời sống của nhân dân, nhưng phần cơ sở lý luận, triết lý hầu như ít đề cập ở cuốn sách này. Với cuốn “Lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc” của Lã Trấn Vũ, ông đã trình bày và đánh giá khá hoàn thiện, sâu sắc quá trình hình thành, phát triển các tư tưởng, học thuyết của Nho gia, Đạo gia, Pháp gia. Trong đó, ông đặc biệt nhấn mạnh, thực chất và bao trùm trong tư tưởng của Nho giáo là tư tưởng Đức trị và tư tưởng Pháp gia là pháp trị. 8 Cuốn sách “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, đã nghiên cứu Nho giáo từ tâm thế của nhà Nho. Ông nhìn nhận Nho giáo không chỉ là một học thuyết triết học, chính trị xã hội, học thuyết đạo đức mà còn là học thuyết trị nước. Thứ hai, là các công trình nghiên cứu về Pháp gia và tư tưởng pháp trị của phái Pháp gia... như trong cuốn “Tư tưởng pháp trị của Pháp gia với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam” của PGS. TS Doãn Chính và TS. Nguyễn Văn Trịnh, đã nghiên cứu sâu sắc bối cảnh ra đời của phái Pháp gia; phân tích những mặt tích cực, hạn chế của tư tưởng Pháp trị. Nội dung chủ yếu trong cuốn sách này là tư tưởng Pháp trị, pháp luật là công cụ chủ yếu để cai trị và quản lý xã hội, là phương thức cơ bản để thiết lập và duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội. Trong các cuốn sách: “Hàn Phi tử” của Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi và “Hàn Phi tử” của Phan Ngọc, các tác giả đã tập trung nghiên cứu nội dung tư tưởng chính trị-xã hội của Hàn Phi, nhất là tư tưởng Pháp trị của ông. Thứ ba, là các công trình nghiên cứu về đạo đức công vụ có cuốn sách :Đạo đức trong nền công vụ do Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn và Nguyễn Thị Kim Thảo là những người hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tổ chức và cán bộ của Việt Nam biên soạn trên cơ sở các bài viết và tham luận của các đại biểu từ các nước ASÊAN tham dự Hội thảo quốc tế: “Đạo đức trong nền công vụ” tại Hà Nội vào ngày 30 và 31 tháng 5 năm 2001. Cuốn sách gồm hai phần: Phần thứ nhất, các tác giả nêu vị trí, vai trò và ý nghĩa vấn đề đạo đức công chức trong nền công vụ. Phần thứ hai, nói về sáng kiến nâng cao đạo đức công vụ của các nước, xuất phát từ thực tế của đất nước mình. Trong nhiều bài viết của các tác giả Việt Nam, đều nhấn mạnh đặc điểm dân tộc và tính giai cấp của vấn đề đạo đức và đưa ra một số nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số tạp chí như: Tạp chí Quản lý Nhà nước có bài “Bàn về đạo đức công vụ” của TS. Vũ Duy Yên. Tạp chí Giáo dục lý luận có bài “Nâng cao đạo đức công vụ góp phần đấu tranh chống tham nhũng” của Tiến sĩ Nguyễn Minh Phương, năm 2008. Tạp 9 chí Quản lý Nhà nước có bài viết “Bàn thêm về đạo đức công vụ” của Tiến sĩ Đỗ Thị Ngọc Lan, năm 2010. Tạp chí Triết học có bài viết “Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Hữu Khiển, năm 2003. Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, liên quan đến đề tài luận văn, còn có nhiều luận án, luận văn, các bài viết trên nhiều tạp chí như “Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng”, “Tư tưởng về Đạo trị nước của các nhà Nho Việt Nam”, “Đạo đức Nho giáo với việc nâng cao phẩm chất đạo đức cộng sản” của Nguyễn Thanh Bình, “Tìm hiểu tư tưởng Đức trị trong Nho giáo” của Nguyễn Thế Kiệt, “Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh thế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục” của Nguyễn Đình Tường... Nhìn chung, dù với góc độ, mục đích nghiên cứu khác nhau nhưng các công trình nghiên cứu trên đều là những kết quả nghiên cứu đáng ghi nhận về tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng trị nước trong Nho gia và Pháp gia và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay chưa được nghiên cứu nhiều, nghiên cứu một cách có hệ thống và còn có một số đánh giá chưa thật sự khách quan và toàn diện. Vì vậy, với khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, từ góc độ tiếp cận triết học, luận văn cố gắng trình bày một cách có hệ thống và làm sáng tỏ hơn một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. 3.1. Mục đích của luận văn. Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia, luận văn chỉ ra ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. 10 3.2. Nhiệm vụ của luận văn. Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, trình bày một cách có hệ thống những nội dung chủ yếu trong tư tưởng trị nước của phái Nho gia và phái Pháp gia. Thứ hai, làm rõ ý nghĩa nổi bật của tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, luận chứng một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy những giá trị tích cực của tư tưởng trị nước Nho gia và Pháp gia trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. 4 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn. 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn. - Tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia. - Thực trạng của đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn. Những quan điểm, luận điểm chủ yếu trong tư tưởng trị nước của Nho gia (qua các tác phẩm kinh điển của Nho gia) và trong tư tưởng trị nước của Pháp gia (chủ yếu qua sách Hàn Phi tử của Hàn Phi). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. 5.1. Cơ sở lý luận. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm, nguyên lý cơ bản của triết học Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam làm cơ sở lý luận. 5.2. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác, như phương pháp phân tích-tổng hợp, phương pháp lôgic-lịch sử, đối chiếu, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa... 11 6. Đóng góp của luận văn. Luận văn bước đầu chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản trong tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia, đặc biệt phân tích rõ ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. Những kết quả đạt được của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập về Lịch sử triết học Trung Quốc và Đạo đức học. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung của Luận văn gồm 02 chương, với 7 tiết. Chương 1: Tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia, với 3 tiết. Chương 2: Ý nghĩa tư tuởng trị nước của Nho gia và Pháp gia đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay, với 4 tiết. 12 Chương 1: TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA. 1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng hình thành tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia. Với tính cách là hình thái ý thức xã hội, quá trình phát sinh và phát triển mỗi trường phái triết học đều gắn liền và bị chi phối bởi những đặc điểm, điều kiện lịch sử nhất định đã nảy sinh ra nó, đúng như C. Mác đã nói: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại của mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [46, tr.156]. Tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia cũng vậy, nó hình thành không phải ngẫu nhiên, hay xuất phát từ ý muốn chủ quan của nhà tư tưởng nào đó, mà nó bị quy định, chi phối và phản ánh những điều kiện lịch sử xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu-Chiến Quốc. Vì vậy, muốn xem xét, đánh giá một cách đúng đắn nội dung, tính chất của các trào lưu tư tưởng triết học Trung Quốc nói chung và tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia nói riêng, chúng ta không thể không nghiên cứu bối cảnh lịch sử, cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của Trung Quốc trong hai thời kỳ ấy. 1.1.1. Bối cảnh kinh tế-xã hội. Theo quan niệm của triết học Mác-Lênin, ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định và phản ánh điều kiện kinh tế-xã hội của xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định. C.Mác cho rằng: “không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [Dẫn theo 51, tr.15]. Tư tưởng trị nước của mỗi thời đại bao giờ cũng phản ánh những dấu ấn của thời đại đó. Với tính cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, một hình thái ý thức xã hội, Nho giáo (trong đó có tư tưởng Đức trị), Pháp gia (trong đó có tư tưởng Pháp trị) cũng nảy sinh, tồn tại trên một cơ sở hạ tầng, một tồn tại xã hội nhất định. Trên lĩnh vực kinh tế: 13 Xã hội Trung Quốc vào thời Xuân Thu- Chiến Quốc, với việc sử dụng công cụ lao động chuyển từ đồ đồng sang công cụ bằng sắt đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển lên trình độ cao hơn. Vào thời kỳ này, với việc chế tạo, phát minh và sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ mới trong việc cải tiến công cụ và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Có thể nói, điều này đã đánh dấu sự thay đổi vượt bậc của nền kinh tế Trung Quốc. Nếu như trước đây, tư liệu sản xuất (trong đó có ruộng đất) đều nằm thuộc quyền sở hữu của nhà Chu thì đến giai đoạn này, đã có sự thay đổi, đó là việc biến ruộng đất của công thành đất của tư ngày càng nhiều đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ “tỉnh điền”. Về sau, pháp luật đã có sự thay đổi, đó là việc công nhận sự tồn tại của chế độ tư hữu ruộng đất. Việc thay thế công cụ bằng đồng sang bằng sắt lúc này ngày càng trở nên phổ biến, sự mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, thủ công nghiệp ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn với rất nhiều ngành nghề đã được mở ra như nghề rèn, nghề mộc, nghề đúc... đã tạo nên sự cách biệt giữa những người làm nông nghiệp ở vùng nông thôn với những người làm nghề buôn bán ở khu vực thành thị, đã bắt đầu xuất hiện sự phân hóa giữa tầng lớp quý tộc với những người được coi là hèn mọn, tiểu nhân trong xã hội. Trên cơ sở phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng phát triển hơn trước, tiền tệ đã xuất hiện. Đây là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Trong thời kỳ này, ở Trung Quốc xuất hiện nhiều trung tâm thương nghiệp mà ở đó việc buôn bán ngày càng trở nên nhộn nhịp đặc biệt là ở các nước Hán, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi thành thị, thị tộc của quý tộc và dần trở thành những đơn vị, khu vực kinh tế của tầng lớp địa chủ mới lên. Sự biến động trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh hưởng, tác động to lớn đến các mặt của đời sống chính trị-xã hội. Nó làm xuất hiện một cục diện mới trong xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu –Chiến Quốc, đó là tình trạng các 14 nước chư hầu nổi lên lấn át địa vị và quyền lực của nhà Chu. Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều tầng lớp mới xuất hiện và ngày càng khẳng định địa vị và vai trò của mình. Cái mới và cái cũ cùng đan xen tồn tại, những mâu thuẫn giữa các giai tầng được hình thành và ngày càng phát triển, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp nông dân và các tầng lớp bị thống trị khác. Nếu như vào đầu thời Chu, “Đất đai và thần dân ở khắp dưới gầm trời này không đâu không phải là sở hữu của nhà vua” (Kinh Thi) thì cho đến lúc này, cái quyền sở hữu tối cao (về đất và dân) ấy đã bị một tầng lớp người mới lên có sức mạnh kinh tế tấn công và chiếm lấy làm tư hữu. Tầng lớp quý tộc, thị tộc- cơ sở xã hội của nhà Chu- do bị mất đất, mất dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút, vì vậy mà đương nhiên, địa vị và vai trò chính trị cùng ngôi thiên tử của nhà Chu ngày càng suy giảm và trên thực tế chỉ còn là hình thức. Các nước chư hầu của nhà Chu không những không chịu phục tùng địa vị và quyền uy của thiên tử (vua nhà Chu), không chịu cống nạp mà còn phát động chiến tranh thôn tính lẫn nhau, luôn tự xưng và cho mình là bá chủ thiên hạ. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên miêu tả thời kỳ này là thời đại “vương đạo suy vi”, “bá đạo” cường thịnh lấn át “vương đạo”. Trong nội bộ các nước- đặc biệt là các nước lớn- quý tộc chia bè lập cánh, chia cắt đất đai của các nước chư hầu để mở rộng bờ cõi. Vì thế, nếu ở đầu thời Chu có khoảng trên dưới 1000 nước chư hầu thì đến thời Xuân Thu chỉ còn lại hơn trăm nước. Trong đó có khoảng chục nước lớn, mạnh nhất là nhóm Thất hùng (Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống, Ngô, Việt). Chiến tranh ngày càng dai dẳng và khốc liệt, nhân dân gánh chịu nhiều tổn thất. Đời sống của họ vốn đã cơ cực ngày càng lâm vào bế tắc. Thực chất, sự xuất hiện những tầng lớp mới, những mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp, những cuộc chiến tranh tàn bạo và khốc liệt trong thời Xuân Thu- Chiến Quốc ở Trung Quốc là những biểu hiện về mặt xã hội mang tính 15 tất yếu khách quan của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi phải giải thể chế độ nô lệ thị tộc đại diện cho phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời và lạc hậu để giải phóng lực lượng sản xuất và tiến nhập vào xã hội phong kiến phân quyền đại diện cho phương thức sản xuất mới. Trong bối cảnh đó, luân lý, đạo đức xã hội rơi vào tình trạng băng hoại, khủng hoảng sâu sắc. Mọi giá trị, chuẩn mực, đạo đức bị đảo lộn, trật tự, kỷ cương xã hội ngày càng thêm rối loạn, thiết chế chính trị, lễ nghĩa của nhà Chu vi phạm và bị phá hoại nghiêm trọng. Đây được coi là thời kỳ “Lễ hoại nhạc tan” với những cảnh bề tôi giết vua hoặc đuổi vua đi ra khỏi đất nước, con hại cha, anh em, vợ chồng bất hòa, chia lìa thường xuyên xẩy ra, thiên hạ trở nên “vô đạo”, trật tự, lễ nghĩa, cương thường của xã hội bị đảo lộn, các mối quan hệ giữa con người với con người bị biến dạng, “ngũ luân” không còn được coi trọng như trước nữa. Khi nhận định về vấn đề này, Khổng Tử cho rằng, sự biến đổi của trật tự lễ nghĩa nhà Chu đã diễn ra từ rất lâu chứ không phải là mới bắt đầu. Đánh giá về thời kỳ này, Khổng Tử nói: “Thiên hạ loạn lạc như nước chảy cuồn cuộn, khắp nơi đều như thế, còn mong cùng người nào làm thay đổi đây?” [28, tr.646]. Trong khi chế độ tông pháp đã tỏ ra quá lạc hậu với thời đại như vậy, thì những cơ sở cho sự định hình thể chế của xã hội mới lại chỉ mới manh nha. Giữa cái cũ và cái mới, không cái nào đủ sức đại diện chân chính cho lịch sử. Bị trói buộc trong trạng thái “giao thời” đó, các chuẩn mực, giá trị xã hội hầu như không được định hình. Như vậy, ở Trung Quốc thời Xuân Thu-Chiến Quốc, do sự phát triển của sản xuất, của kinh tế, như đã trình bày trên đây, đã làm cho những mâu thuẫn giữa các giai cấp, các đẳng cấp, các tập đoàn phong kiến xuất hiện thời Xuân Thu đến thời Chiến Quốc ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt đến thời Chiến Quốc, đã xuất hiện tầng lớp địa chủ lớn, địa chủ kiêm thương nhân, làm nảy sinh thêm mâu thuẫn giai cấp này với đẳng cấp, giai cấp khác. Tất cả đã dẫn 16 đến xã hội hết sức rối loạn, không có trật tự, kỷ cương. Việc cai trị, quản lý xã hội, việc khắc phục loại trừ sự rối loạn trong xã hội theo phương thức cai trị cũ không có hiệu quả, yêu cầu phải thay thế bằng một phương thức cai trị mới phù hợp. Nhằm loại trừ thực trạng xã hội ấy và đưa xã hội từ loạn tới bình trị, một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách là cần phải có một cuộc cải cách về đường lối trị nước, phải kiến tạo một phương thức trị nước có hiệu quả. Bởi vậy mà, hàng loạt các học thuyết chính trị-xã hội được xem là lý tưởng do những mưu sĩ đưa ra và được các vua chư hầu tùy chọn làm công cụ cai trị. Lịch sử gọi đây là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng). Từ đây đã sản sinh hàng loạt những nhà tư tưởng, những nhà chính trị xuất sắc và hình thành nhiều tư tưởng triết học, chính trị-xã hội như Nho gia, Pháp gia, Mặc gia, Đạo gia…Trong số “bách gia” xuất hiện thời Tiên Tần ở Trung Quốc thì Nho giáo và Pháp gia là những học thuyết có tính hiệu quả và sức sống lâu dài nhất. Nếu phái Nho gia đặc biệt đề cao đạo đức, coi đạo đức là công cụ, là phương tiện cai trị, quản lý xã hội có hiệu quả nhất thì phái Pháp gia lại đề cao vai trò của pháp luật trong việc trị nước, trong việc đưa xã hội từ “loạn” đến “bình trị”. 1.1.2. Tiền đề tư tưởng. Tư tưởng Đức trị của Nho giáo và tư tưởng Pháp trị của Pháp gia còn được hình thành trên cơ sở tiếp thu những tiền đề tư tưởng sau: Về tôn giáo: Nhà Ân chỉ tôn sùng và cúng tế một vị thần toàn năng, đó là thần tổ tiên, vì nhà Ân cho rằng, phàm như mọi việc như gió, bệnh tật, hạn hán, được mùa, mất mùa...đều do sự giáng phúc, giáng họa của tổ tông. Vào khoảng thế kỷ XI TCN, tộc Chu từ phía Bắc tiến vào đất Ân và tiêu diệt hoàn toàn nhà Ân lập nên nhà Chu. Tiếp tục truyền thống tế Đế tổ, tiên vương của người Ân, nhà Chu thêm tư tưởng kính trời, thờ thượng đế, hợp mệnh trời, 17 người với trời hợp nhất. Họ cho rằng, Thượng đế và thần tổ tiên nguyên là hai không thể lẫn làm một. Nhà Ân do không biết “mệnh trời”, hành động không hợp “mệnh trời” nên nay Thượng đế không ưa nhà Ân nữa, cho nên ban mệnh xuống cái quyền ấy cho nhà Chu, để nhà Chu lập ấp, dựng nước. Chế độ nhà Chu luôn đề cao tư tưởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “thiên nhân-hợp nhất”. Theo đó, nhà Chu cho rằng, trời là lực lượng có uy quyền tối cao, tuyệt đối. Do vậy, vì nhà Ân không biết vâng theo “mệnh trời” nên trời trừng phạt để cho nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị nhân dân. Nhà Chu cho rằng: “mệnh trời không nhất định, thiện thì được, bất thiện thì mất- duy mệnh bất vô thường, đạo thiện tất đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỷ” [7, tr.26]. Về chính trị: Tư tưởng chính trị chủ yếu của giai cấp quý tộc Chu là “Nhận dân”, “Hưởng dân”, “Trị dân”. Tư tưởng này xuất phát từ quan niệm của nhà Chu cho rằng, vì nhà Chu biết và làm theo “mệnh trời”, tuân theo “mệnh trời” mà được “nhận dân” từ tay nhà Ân để “hưởng dân” và “trị dân” suốt đời. Giai cấp quý tộc nhà Chu cho rằng, kẻ chịu mệnh trời để thống trị thiên hạ là Thiên tử, Thiên tử cùng sánh với trời và vì vậy, nếu kẻ nào chống lại “mệnh trời” thì nhà Chu sẽ vâng mệnh trời trừng trị, chém giết. Vua là Thiên tử (con trời) được thay trời thống trị thiên hạ, cai trị dân. Rõ ràng, tư tưởng chính trị dưới thời nhà Chu là hết sức phản động, nhưng lại được phủ lên một lớp son tôn giáo về “ý trời”, “mệnh trời”. Về đạo đức: Tư tưởng đạo đức của nhà Chu lấy hai chữ Đức và Hiếu làm nòng cốt. Xuất phát từ quan niệm tôn giáo về trời- người hợp nhất, nhà Chu cho rằng, tổ tiên của mình là bậc Tiên vương do luôn có đức mà được sánh cùng thượng đế, nhận được “mệnh trời” mà “hưởng nước”, “hưởng dân”. Do vậy, các vua sau phải kính cái đức đó, mà giữ gìn và bồi đắp nó để con cháu được hưởng lâu dài. Hiếu là nhớ ơn tổ tiên, là phải luôn giữ gìn và làm sáng tỏ khuôn phép của tổ tiên để lại, có như vậy, mới nhận được mệnh trời mà được hưởng nước, hưởng dân mãi mãi. Rõ ràng, đây là quan niệm đạo đức 18 duy tâm, bảo thủ và phản động nhằm tuyên truyền và củng cố địa vị thống trị vĩnh viễn của giai cấp quý tộc, thị tộc, bảo vệ nhà nước chuyên chính thị tộc. Nhưng về sau, quan niệm này lại được nhiều nhà Nho tiếp nhận vào hệ thống Nho giáo nói chung và tư tưởng đạo đức của Nho giáo nói riêng. Chính điều này, một phần giúp chúng ta cắt nghĩa vì sao, ở Nho giáo, đạo đức và chính trị gắn chặt với nhau, coi đạo đức là một trong những công cụ, phương tiện chính trị chủ yếu của nhà vua, của người cầm quyền trong việc trị dân, trị nước, bình thiên hạ. Như vậy, tư tưởng trị nước của Nho giáo là tư tưởng Đức trị nhằm mục đích là đưa xã hội từ “vô đạo” thành xã hội “hữu đạo”. Nho giáo tiếp nhận vào hệ thống của mình nhiều tư tưởng tôn giáo để giáo hóa con người, buộc con người phải tuân theo những quy tắc, chuẩn mực xã hội mà các nhà Nho đưa ra. Bên cạnh đó, Tư tưởng Pháp trị của phái Pháp gia được hình thành trên những tiền đề chủ yếu sau đây: Tư tưởng pháp trị của Pháp gia là sự kế thừa nhiều tư tưởng triết học của các bậc tiền bối đương thời. Đặc biệt là sự kế thừa tư tưởng “tôn quân”, “chính danh” của Khổng Tử, tư tưởng “thượng đồng”, “công lợi” của Mặc gia và kế thừa tư tưởng quan điểm về “đạo”, “đức”, “đạo vô vi” của Đạo gia, tư tưởng “tính ác” của Tuân Tử. Tư tưởng về “đạo”, “lý” của Pháp gia là sự kế thừa tư tưởng duy vật về thế giới của Lão Tử. “Đạo” được thể hiện (bộc lộ, hiện ra) trong các sự vật, hiện tượng cụ thể bằng cái “lý”, vì vậy “lý” đó là sự phân biệt giữa vuông và tròn, ngắn và dài, thô kệch và tinh tế, mạnh và yếu” [ Dẫn theo 5, tr.336]. Trong học thuyết của Lão Tử, học thuyết về “đạo” có một vị trí cực kỳ quan trọng. Nó là nền tảng chi phối xuyên suốt các vấn đề trong triết học của ông và hầu hết các quan điểm về vũ trụ, nhân sinh của người Trung Hoa cổ đại. 19 Theo Hàn Phi Tử, “đạo” vừa là nguồn gốc của vạn vật, vừa là quy luật phổ biến của chúng, vì vậy nó không thay đổi. Còn “lý” là quy luật riêng, nên nó “bất thường” luôn biến hóa không ngừng [Dẫn theo 5, tr.336]. Chính vì vậy, theo Hàn Phi, để nhận thức được sâu sắc được sự vật và hoạt động có kết quả, mọi hoạt động của con người phải tuân theo quy luật “thể hiện đạo” và “tuân theo lý”. Vận dụng thuyết “đạo” và “lý” vào phép trị nước. Hàn Phi cho rằng, ngày nay cái “lý” (thời thế, hoàn cảnh...) đã thay đổi, thì phép trị nước không thể viện theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “vô vi trị” của Đạo gia như trước nữa, mà trong hoàn cảnh hiện tại (vương đạo suy vi, đất nước loạn lạc...) cần phải dùng pháp trị. Như ông nói: “Phàm dựa theo đạo lý mà làm việc thì không việc nào là không thành. Không việc nào không thành thì lớn có thể thành cái thế cao quý của thiên tử, nhỏ dễ được hưởng cái lộc của vị khanh tướng, tướng quân” [57, tr.175] và “Lấy đạo mà cai trị thiên hạ thì quỷ không thiêng...mà là cái thiêng của nó không làm thiệt hại đến người ta” [57, tr.182-183]. Người trị vì thiên hạ phải nhận thức được “đạo” và “lý” của vạn vật. Như ông cho rằng, “đạo” tuy không thể nhìn thấy, nhưng thánh nhân nắm được chỗ công hiệu của nó mà thấy được hình dạng của nó. Hàn Phi kịch liệt phê phán người trị vì thiên hạ mà lại mê tín, bói toán tin vào quỷ thần. Ông nhấn mạnh, trên thế giới không có gì chứng thực được là có quỷ thần, người cai trị tin vào quỷ thần thì sẽ mất nước, đánh giặc mà nhờ cầu khấn quỷ thần sẽ thất bại. Trong khi kế thừa và phát triển thuyết “tính ác” của Tuân Tử, Hàn Phi cho rằng, bản chất con người là “ích kỷ” và đặc tính chủ yếu của nó là “sự ham mê lợi ích và thù ghét tai họa” [Dẫn theo 5, tr.339], rằng không có con người nào mà lại “không mong muốn nhận được sự giúp đỡ của người khác” và “không tính toán, ham thích lợi ích của người khác” [Dẫn theo 5, tr.339]. Xuất phát từ luận điểm “lợi ích vật chất là cơ sở của tất cả quan hệ xã hội và hành vi con người”, Hàn Phi cho rằng, con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi, 20 luôn “thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó...”[ Dẫn theo 5, tr.339], đó là bản tính tự nhiên. Vì vậy, tất cả các quan hệ xã hội (kể cả quan hệ đạo đức, tình cảm ruột thịt...) đều được xây dựng trên cơ sở tính toán lợi hại cá nhân. Người chủ cho người làm thuê ăn uống và trả tiền công khá sòng phẳng không phải vì lòng thương người, mà chính để cho người làm thuê gắng sức làm việc, còn người làm thuê tận tâm làm việc không phải vì thương chủ, mà vì được ăn uống, có tiền bạc...Tất cả quan hệ cha-con, chồng-vợ, anh-em, vua- tôi đều có chỗ lợi hại như vậy. Theo Hàn Phi, bản tính con người thực ra chỉ là sự tính toán cho riêng mình mà thôi, bởi vì: “Thầy lang khéo mút vết thương, ngậm máu bệnh nhân đâu phải là vì tình cốt nhục mà chỉ vì lợi. Thợ đóng xe mong cho nhiều người giàu sang, còn thợ đóng quan tài mong cho nhiều người chết yểu, không phải là thợ đóng xe có lòng nhân mà thợ đóng quan tài tàn nhẫn, chỉ vì người ta không giàu sang thì người ta không mua xe, người ta không chết thì quan tài không bán được” [40, tr.468] và “Cha mẹ đối với con, sanh con trai thì mừng, sanh con gái thì giết, là do nghĩ đến sau này, đứa nào có lợi lâu dài cho mình hơn. Vậy, cha mẹ đối với con mà còn đem lòng tính toán lợi hại huống hồ là những người không có tình cha con với nhau” [40, tr.459]. Chính vì vậy, theo Hàn Phi muốn trị dân, muốn nước mạnh không thể lấy giáo dục, lễ nghĩa làm trọng, mà phải đề cao pháp luật vì: “Người tuân theo nhân nghĩa mà trị dân, để dân theo nghĩa chỉ là một ảo tưởng của Nho gia, làm hại cho nước vì tính con người ta vốn ác”[ Dẫn theo 5, tr.339]. Hơn nữa, theo ông, nếu dùng nhân nghĩa để phán xét phải trái sẽ rơi vào tình trạng dùng tâm lý cá nhân để định nặng nhẹ, thiếu công minh, bởi vì ông vua nhân đức nào mà không có lòng tư dục, ân oán? Sự thiếu khách quan và công bằng là đầu mối của sự náo loạn thiên hạ. Vì vậy, phép trị nước công bằng và hữu hiệu hơn cả là dùng luật pháp. 21 Tải về bản full 03(52)/2009Mục lục
Mục lục
Mục lục
Quá trình hình thành và phát triểnTrong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý,... Nhìn chung "Nho" là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa. Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ IV, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nho giáo nguyên thủyKinh Lễ Bức chân dung cổ nhất về Khổng Tử do họa sư Ngô Đạo Tử vẽ vào đầu thế kỷ VIII Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo. Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học. Nếu xem Nho giáo như một tôn giáo thì Văn Miếu trở thành nơi dạy học kiêm chốn thờ phụng, và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. Tuy nhiên, Nho giáo về cơ bản không được xã hội xem như một tôn giáo bởi Nho giáo không trả lời những câu hỏi cần thiết mà một tôn giáo có thể trả lời. Cho tới hiện nay, Nho giáo liệu có phải là một tôn giáo chính thức hay không vẫn là một đề tài tranh luận. Mục tiêu của Nho giáo nguyên thủy theo sách Đại Học là:
Khổng Tử muốn đến đất Cửu Di để ở, có người nói "Ở đó quá lạc hậu, làm sao mà ở được.". Khổng Tử nói "Có người quân tử ở đó, làm gì còn lạc hậu nữa".[5] Đây là tư tưởng nhập thế của Nho gia. Khổng Tử nói: "Đạo không thể xa lánh người. Nhưng có người muốn thực hành đạo mà lại xa lánh người, như vậy thì không thể thực hành được đạo... Cho nên người quân tử dùng cái đạo lý vốn sẵn có ở người để giáo dục người, lấy cải sửa làm chính, giáo dục mãi cho đến khi thành người mới thôi. Cũng như ta trau chuốt cán rìu vậy, trau chuốt đến mức thành cán rìu mới thôi. Người ta có lỗi mà biết sửa là được rồi, không xa lánh họ nữa.[6]". Tống NhoBài chi tiết: Tống Nho
Khởi đầu Hàn Dũ và Lý Ngao (李翱, 772-841) thời nhà Đường có những ý tưởng mới bổ sung cho Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử và Mạnh Tử. Đến thời Tống, Nho giáo có sự phát triển đáng kể. Các nhà triết học thời kỳ này như Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Chu Hy, Lục Cửu Uyên, Trần Lượng... đã đưa những khái niệm và triết lý mới vào Nho giáo tạo nên một trường phái Nho giáo có nhiều điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử và các học trò của ông. Các học giả Tống Nho khai thác các nội dung của Kinh dịch, Phật giáo, Đạo giáo để giải thích nguồn gốc vũ trụ và các nội dung kinh sách của Nho gia. Họ cho rằng thế giới do "lí" (tinh thần) và "khí" (vật chất) tạo thành, trong đó lí có trước, thuộc về phái duy tâm khách quan theo cách phân loại của phương Tây. Chu Đôn Di (1016-1073) cho rằng nguồn gốc thế giới là thái cực, thái cực sinh ra âm dương, ngũ hành, trời đất, con người, vạn vật, trước thái cực không có vật chất mà chỉ có "lý". Chu Hy (1130-1200) dùng quan điểm lý học để chú giải lại các nội dung của kinh sách Nho học, ví dụ cho rằng nhân nghĩa lễ trí là biểu hiện của "lý". Vì vậy, Tống Nho còn được gọi là "Lý học"[7]. Tống Nho là một nỗ lực để tạo ra một hình thức duy lý và siêu hình của Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín và thần bí của Đạo giáo và Đạo Phật đã ảnh hưởng đến Khổng học trong và sau thời nhà Hán [8]. Người ta cố gắng trừu tượng hóa các quan điểm đạo đức của Nho giáo thành các khái niệm và mệnh đề triết học. Mặc dù các nhà triết học Tống Nho đã phê bình Đạo Lão và Phật giáo[9] nhưng cả hai tôn giáo này đều có ảnh hưởng đến Tống Nho. Những nhà triết học thuộc trường phái Tống Nho đã vay mượn các thuật ngữ và khái niệm từ Phật giáo và Đạo giáo. Tuy nhiên, không giống như Phật giáo và Đạo giáo, người đã nhìn thấy siêu hình học như một chất xúc tác cho sự phát triển tinh thần, giác ngộ tôn giáo và sự bất tử. Các nhà triết học Nho giáo đã sử dụng siêu hình học như một hướng dẫn để phát triển một triết lý đạo đức duy lý[10]. Phong trào phục hưng Nho giáoĐến thế kỷ XX, với sự sụp đổ của chế độ quân chủ, Nho giáo mất vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập niên 1960-1970 khi Mao Trạch Đông làm chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ XXI, đứng trước sự suy thoái của đạo đức xã hội, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con người dần được coi trọng trở lại và được thúc đẩy thành phong trào tại các nước Đông Á. Trong quá trình toàn cầu hóa, sự giao thoa văn hóa Đông Tây diễn ra, các giá trị đạo đức của Nho giáo có thể xem là các giá trị phổ biến của nhân loại[11]. Tượng Khổng thánh tại Yushima Seido, Tokyo, Nhật Bản. Phục hưng Nho giáo trong thế kỷ XXI là phong trào đang lên ở Đông Á, nó xuất phát từ Trung Quốc và lan truyền ra các khu vực lân cận. Nhiều hội thảo quốc tế về phục hưng nền Nho học đã được tổ chức ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tập hợp các nhà nghiên cứu Nho giáo trong khu vực và trên thế giới đã kiến lập Hiệp hội nghiên cứu Nho giáo quốc tế. Trong buổi Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Hàn Quốc 2010, một số báo cáo ghi nhận "mặt trái của quá trình Tây phương hóa (nói cách khác là hiện đại hóa) đã làm cho xã hội Đông Á mất dần tôn ti trật tự, tinh thần cộng đồng và đoàn kết xã hội. Lớp trẻ dần chạy theo những thứ hào nhoáng của văn minh hiện đại mà bỏ xa dần các quan niệm hiếu nghĩa, trung chính, tiết độ". Các báo cáo này nhấn mạnh giá trị tinh thần của Nho giáo sẽ là công cụ hữu hiệu nhằm khôi phục lại giá trị đạo đức của xã hội[12]. Từ năm 2005, chương trình Bách gia Giảng đường của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã khởi xướng phong trào đọc lại Luận ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Ban Quốc học Đại học Thanh Hoa tính học phí 26.000 nhân dân tệ cho một khóa học về đạo đức Nho gia, Đại học Phục Đán thu mỗi người 38.000 nhân dân tệ, và khóa học cổ văn ngoài giờ cho trẻ em cũng có học phí rất cao.[13] Từ năm 2004 cho tới năm 2020, Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch thành lập hơn 1.000 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới để quảng bá văn hóa truyền thống Trung Hoa.[14][15] Chính phủ Trung Quốc đã chi hàng triệu USD cho hai chương trình nghiên cứu và biên soạn Nho tạng tại Đại học Nhân dân và Đại học Bắc Kinh. Bộ Nho tạng tinh hoa của Đại học Bắc Kinh với tổng số 500 tập dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2015. Hai chương trình biên soạn Nho tạng nói trên là một hoạt động quy mô lớn chưa từng có để hiệu chỉnh và kết tập điển tịch Nho học lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đồng thời đây cũng là một lần tổng kiểm kê di sản điển tịch Nho học trên quy mô toàn thế giới. Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, hai đại học hàng đầu là Đại học Seoul và Đại học Tokyo cũng đều đã thành lập các trung tâm biên soạn Nho tạng riêng với kế hoạch hoạt động quy mô lớn. Trong xu hướng nghiên cứu Nho giáo đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới hiện nay, nghiên cứu kinh điển Nho gia có vị trí đặc biệt quan trọng. Ngày 24 tháng 9 năm 2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến dự và phát biểu tại "Hội thảo Nho học với nền hòa bình và sự phát triển thế giới" nhân kỷ niệm 2565 năm ngày sinh Khổng Tử. Đây là lần đầu tiên lãnh đạo cao nhất Trung Quốc dự hoạt động trên. Ông nhấn mạnh: Tư tưởng triết học phong phú, tinh thần nhân văn, giá trị đạo đức của Văn hóa truyền thống Trung Quốc là gợi ý hữu ích cho việc trị quốc. Nho giáo là bộ phận quan trọng của văn hóa truyền thống Trung Quốc, có sức sống lâu dài, chứa đựng các gợi ý quan trọng giúp giải quyết những vấn đề của loài người hiện đại. Các tư tưởng "thiên hạ vi công, thế giới đại đồng", "dĩ dân vi bản, an dân phú dân lạc dân", "Nhân giả ái nhân, Dĩ đức lập nhân"… cần phải được kế thừa và phát huy. Ông nói: nghiên cứu Nho giáo chính là là để hiểu đặc tính dân tộc của người Trung Quốc, cần hấp thu sức mạnh truyền thống, việc quản trị quốc gia thời hiện đại càng cần có sự nâng đỡ của văn hóa truyền thống. Giáo sư Vương Kiệt ở Trường Đảng Trung ương Trung Quốc nhấn mạnh: sự du nhập văn hóa phương Tây đã khiến dân tộc Trung Hoa dần bị tha hóa, suy đồi về văn hóa và đạo đức, Đảng Cộng sản Trung Quốc dần nhận ra giá trị to lớn của văn hóa truyền thống Trung Quốc, hiểu rằng chỉ có kiên trì chủ nghĩa Mác, kế thừa có phê phán nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, kiên trì nguyên tắc “cổ vi kim dụng”, “dương vi trung dụng” thì mới có thể thực hiện sự nghiệp phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa. Sức mạnh cứng (kinh tế và quân sự) rất quan trọng, nhưng sức mạnh mềm như văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tinh thần, giá trị quan… cũng quan trọng không kém với một đất nước. Nếu đất nước đánh mất văn hóa, nền tảng đạo đức truyền thống thì dù kinh tế có giàu mạnh đến đâu thì cũng chẳng khác nào mất nước, mất dân tộc.[16] Học viện Nho giáo tại thành phố Andong, Hàn Quốc Học sinh tham gia ngoại khóa tại một Học viện Nho giáo ở Hàn Quốc Tại Hàn Quốc, rất nhiều người nhận thấy rõ những giá trị đạo đức lâu đời của dân tộc đang mất dần đi. Sau cuộc chiến liên Triều 1950-1953, Hàn Quốc áp dụng hệ thống giáo dục chịu nhiều ảnh hưởng của giáo dục phương Tây, Nho giáo bị công kích và bị coi là lỗi thời. Ông Pak Seok-hong nhấn mạnh sự sai lầm của hệ thống giáo dục đó: việc quá nhấn mạnh vào học tiếng Anh và toán đã chiếm chỗ của các môn học như đạo đức và lịch sử. Ông thấy đất nước "đang biến thành vương quốc đầy súc vật": người trẻ chửi người già trên tàu, những đứa trẻ tự tử để khỏi bị bắt nạt... Sự hòa hợp, kính trọng người cao tuổi và lòng trung thành với Tổ quốc - những đức tính đó nay đã phai nhạt trong giới trẻ Hàn Quốc. Pak Seok-hong nói: "Chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mạnh mẽ, nhưng đạo đức của dân tộc đang trên bờ vực của sự sụp đổ. Chúng ta phải khôi phục lại nó và các Seowon (học viện Nho giáo) là nơi chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời".[17] Hiện nay, số lượng học sinh Hàn Quốc đến các học viện Nho giáo để học tập ngoại khóa ngày càng tăng, lên tới hàng trăm ngàn học sinh mỗi năm. Tại đây, học sinh được dạy những lễ giáo đạo đức từ lâu đã không còn xuất hiện tại trường học, từ việc ăn tối, uống trà đến việc thưa chuyện lễ phép với cha mẹ. Theo ông Pak Sung-jin - giám đốc điều hành của Hiệp hội Seowon quốc gia Hàn Quốc, có khoảng 150 học viện Nho giáo ở khắp Hàn Quốc đã mở trở lại các chương trình ngoại khóa tương tự. Ông tin rằng người Hàn Quốc đương đại cần từ bỏ cách nghĩ thiển cận coi Nho giáo là "lỗi thời" và cần nghiêm túc học hỏi lại nhiều giá trị tinh thần, cách đối nhân xử thế từ xã hội xưa.[17] Đại diện cho học giả Hàn Quốc, giáo sư An Bỉnh Chu, Đại học Thành Quân Quán đã nêu lên lời cảnh báo: “Ngày nay, xã hội đầy tiếng kêu cứu phản ánh nỗi lo lắng về sự hoang tàn của nhân tâm. Môi trường bị ô nhiễm, luân lý bị suy đồi, con người phơi trần nỗi khát khao truy cầu lợi ích và dục vọng. Nội tâm con người hoang tàn, giá lạnh. Quan hệ giữa người và người chỉ còn là cạnh tranh vì lợi ích. Tất cả loài người đang đứng trước nguy cơ diệt vong“. Và chính từ những báo động trên, ông đã nêu lên nên trở lại những nguyên lý đạo đức cuộc sống mà Lý Hoảng (1501-1570), đại sư Nho giáo Hàn Quốc đã từng nhắc nhở trong vấn đề tâm học đạo đức. Ở hội nghị quốc tế “Nho giáo với xã hội tương lai” ở An Đông - Hàn Quốc (10-2001), các giáo sư Pháp, Nga, Mỹ, Anh v.v... đều có ý muốn nghiên cứu tư tưởng Nho giáo nhằm tìm con đường giải quyết những bế tắc trong quan hệ con người, xã hội và đặc biệt là gia đình ở phương Tây trong giai đoạn hiện tại. Họ đều đề cao đạo đức “Nhân”, “Lễ”, "Nghĩa" của Nho giáo. Trong mấy chục năm trở lại đây, một số nhà nghiên cứu Việt Nam còn nhầm lẫn về bối cảnh xuất hiện, bản chất, nội dung và vai trò của Khổng giáo. Khổng giáo nói riêng và Nho giáo nói chung cần tiếp tục được nhận thức đúng đắn hơn[18]. Cần phải tiếp thu có chọn lọc, để có thể gạt bỏ những yếu tố tiêu cực và sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng Việt Nam ngày càng văn minh, giàu đẹp và hiện đại[19]. Tại Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội đã khởi động dự án dịch Nho tạng ra tiếng Việt[20]. Năm 2020, khi thế giới diễn ra đại dịch COVID-19, các nước châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề trong khi các nước Đông Á khống chế dịch bệnh khá tốt. Cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam (2012-2016), ông Jean-Noël Poirier đã có bài viết "Kỷ luật Nho giáo và phi trật tự châu Âu" đã phân tích[21]:
|