So sánh photpho trắng và photpho đỏ năm 2024

Đốt cháy hoàn toàn 6,2 gam photpho bằng oxi dư rồi cho sản phẩm tạo thành tác dụng vừa đủ với m gam dung dịch NaOH 32%, thu được muối Na2HPO4. Giá trị của m là :

Cho 150 ml dung dịch KOH 1M tác dụng với 200 ml dung dịch H3PO4 0,5M. Sau phản ứng, trong dung dịch chứa các muối

D

KH2PO4, K2HPO4 và K3PO4.

Cho 44 gam NaOH vào dung dịch chứa 39,2 gam H3PO4. Sau khi phản ứng xảy ra hoàn toàn, đem cô cạn dung dịch. Khối lượng từng muối khan thu được là :

B

49,2 gam NaH2PO4 và 14,2 gam Na3PO4.

D

14,2 gam Na2HPO4 và 49,2 gam Na3PO4.

Cho 100 ml dung dịch NaOH 4M tác dụng với 100 ml dung dịch H3PO4 aM thu được 25,95 gam hai muối. Giá trị của a là:

Cho 2 dung dịch : X : V1 lít dung dịch NaOH 1M ; Y : V2 lít dung dịch H3PO4 1M. Trộn lẫn dung dịch X với dung dịch Y để thu được hai muối NaH2PO4 và Na2HPO4 thì tỉ lệ thể tích trong khoảng xác định là :

Cho 14,2 gam P2O5 vào 100 ml dung dịch chứa NaOH 1M và KOH 2M, thu được dung dịch X. Các anion có mặt trong dung dịch X là :

Cho 1,32 gam (NH4)2SO4 tác dụng với dung dịch NaOH dư, đun nóng thu được một sản phẩm khí. Hấp thụ hoàn toàn lượng khí trên vào dung dịch chứa 3,92 gam H3PO4. Muối thu được là:

D

NH4H2PO4 và (NH4)2HPO4.

Để trung hoà hoàn toàn dung dịch thu được khi thuỷ phân 4,5375 gam một photpho trihalogenua cần dùng 55 ml dung dịch natri hiđroxit 3M. Xác định công thức của photpho trihalogenua đó, biết rằng phản ứng thuỷ phân tạo ra hai axit, trong đó có axit H

Phốtpho (từ tiếng Hy Lạp phosphoros, có nghĩa là "vật mang ánh sáng" và nó cũng là tên gọi cổ đại của Sao Kim) đã được nhà giả kim thuật người Đức là Hennig Brand phát hiện năm 1669 thông qua việc điều chế nước tiểu. Phốtpho là nguyên tố quan trọng trong mọi dạng hình sự sống.

Phốtpho tồn tại dưới ba dạng thù hình cơ bản có màu: trắng, đỏ và đen. Các dạng thù hình khác cũng có thể tồn tại. Phổ biến nhất là phốt pho trắng và phốt pho đỏ, cả hai đều chứa các mạng gồm các nhóm phân bổ kiểu tứ diện gồm 4 nguyên tử phốtpho.

Phốtpho vô cơ trong dạng phốtphat PO43- đóng một vai trò quan trọng trong các phân tử sinh học như ADN và ARN trong đó nó tạo thành một phần của phần cấu trúc cốt tủy của các phân tử này.

Cơ thể chúng ta trung bình chứa 1 kg P. Với số lượng đó, nhà máy diêm có thể sản xuất được hàng trăm bao diêm. Sự phân bố P trong cơ thể chúng ta không đều. Các tổ chức mềm tạo nên các cơ quan cần có một giá đỡ cứng và có thể cử động được, đó là bộ xương.

Tính rắn của bộ xương là do canxi photphat, một chất kết tinh rắn duy nhất trong số hàng nghìn chất cấu tạo nên cơ thể con người. P tập trung nhiều nhất ở trong xương, khoảng 100g tập trung ở bắp thịt và gần 10g ở tổ chức thần kinh.

Nếu P trong xương mất đi thì thân thể chúng ta trở thành một khối không có hình dáng, nếu P trong bắp thịt mất đi thì chúng ta sẽ mất khả năng cử động, và nếu P trong tổ chức thần kinh mất đi thì chúng ta sẽ ngừng suy nghĩ.

Không có P sẽ không có tư tưởng. Bạn vui mừng hay sợ hãi, hoặc nảy ra một ý tưởng mới, hoặc sút 1 quả bóng chính xác vào lưới, tất cả những điều đó không thể thực hiện được nếu trong cơ thể chúng ta thiếu P. Sự hoạt động của não, sự co rút của bắp thịt chính là kết quả của sự biến đổi hóa học của các lớp chất này.

P là một nguyên tố rất phổ biến trong tự nhiên. Do đó nếu P trên trái đất mất đi thì cảnh tượng duy nhất chúng ta thấy được, đó là trên trái đất hoàn toàn không có sự sống. Ở bất kỳ nơi nào cũng có lượng nhỏ P. Nếu trên trái đất không có P thì cũng không có một ngọn cỏ nào có thể mọc lên được.

Do độ hoạt động hóa học cao đối với ôxy trong không khí và các hợp chất chứa ôxy khác nên phốtpho trong tự nhiên không tồn tại ở dạng đơn chất, mà nó phân bổ rộng rãi trong các loại khoáng chất khác nhau. Các loại đá phốtphat, trong đó một phần cấu tạo là apatit (khoáng chất chứa phốtphat tricanxi dạng không tinh khiết) là một nguồn quan trọng về mặt thương mại của nguyên tố này.

Là nguồn nguyên liệu quan trọng tạo nên thành phần phốtpho trong phân bón giúp cây trồng hấp thụ nguyên tố này từ đất.

Tại Việt Nam, nguồn cung cấp phốtpho lớn nhất là mỏ apatit Lào Cai, nơi cung cấp nguyên liệu chính để sản xuất phân supephốtphat.

Dù ở dạng này hay dạng khác, P trong cơ thể chúng ta được lấy từ nguồn thức ăn thực vật (từ những cây hấp thụ P ở đất) và trong thức ăn thịt (từ động vật ăn cỏ đã hấp thụ được P của cây cối).

Photpho đỏ dùng để làm gì?

- Phốtpho đỏ được sử dụng để sản xuất các vỏ bao diêm an toàn, pháo hoa và nhất là mêtamphêtamin (C10H15N). - Phốtpho được dùng như là chất thêm vào cho các loại bán dẫn loại n. - Đồng vị phốtpho 32P và phốtpho 33P được dùng như là các chất phát hiện dấu vết phóng xạ trong các phòng thí nghiệm hóa sinh học.

Photpho thể hiện tính gì?

+ Là chất bột màu đỏ, dễ hút ẩm và chảy rữa, bền trong không khí ở nhiệt độ thường và không phát quang trong bóng tối. + Không tan trong các dung môi thông thường. + Bốc cháy ở nhiệt độ trên 250oC. + Khi đun nóng không có không khí, photpho đỏ chuyển thành hơi, khi làm lạnh thì hơi đó ngưng tụ lại thành photpho trắng.

Tại sao photpho trắng để cháy?

Photpho trắng phát sáng màu xanh lá cây là do nó phản ứng với oxy trong không khí. Phản ứng này dễ dàng tăng tốc, nhanh chóng phát triển thành ngọn lửa và khói trắng gây cháy nhà.

Photpho trắng có màu gì?

Phosphor trắng là một loại sáp rắn trong suốt nhanh chóng chuyển sang màu vàng khi tiếp xúc với ánh sáng. Vì lý do này, nó còn được gọi là phosphor vàng. Nó phát sáng màu xanh lục trong bóng tối (khi tiếp xúc với oxy) và rất dễ cháy khi tiếp xúc với không khí.