Tập đọc chợ Tết của Đoàn Văn Cừ đã phác hoa bức tranh như thế nào

Bài tập đọc chợ tết của Đoàn Văn Cừ đã khắc họa bức tranh như thế nào?

`->` Bài tập đọc đó đã khắc họa một bức trang chợ Tết ở miền trung du đầy màu sắc, sinh động. Nói lên được cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc của những người ở miền quê.



Đọc lại Chợ Tết, ta chợt cảm nhận được niềm vui rộn ràng trước sự chuyển động của không gian, sắc màu và con người. Đoàn Văn Cừ đã cho chúng ta một “gốc sống” trong sự tồn tại hồn nhiên, hỗn độn nhưng nhịp nhàng của cuộc sống.

Dải mây trắng nhuộm đỏ dần trên đỉnh núi, làn sương lam hồng ôm lấy mái chòi, trên con đường trắng bao bọc đồi xanh, dân làng nô nức đi chợ Tết. Họ đang chuyển hàng trên bãi cỏ xanh một cách vui vẻ; Nam sinh áo đỏ chạy tới, vài cụ già chống gậy cúi xuống, che môi cười nhẹ. Đứa trẻ giấu đầu bên chiếc tạp dề của mẹ, và hai người dân làng cõng lợn chạy về phía trước,

Chú bò vàng vui nhộn đuổi theo sau đó.

Sương trắng rơi trên cành như giọt sữa, nắng tím loang lổ trên ruộng lúa, núi cung áo xanh, đồi son nằm dưới ánh bình minh. Người mua kẻ bán chật kín cổng chợ. Con trâu giả vờ ngủ say, đứng nhắm mắt để nghe khách nói. Bà chủ quán vội vã đi vòng quanh hai vợ chồng, tìm chỗ đông người ngồi bán. Một cô giáo cong lưng về cánh tả, Tý đang phay làm thơ mùa xuân. Ông lão dừng lại, vỗ về râu, mấy hàng chữ đỏ theo miệng chảy ra. Bà cụ bán hàng bên ngôi chùa cổ kính, nước thời gột rửa mái tóc bạc trắng. Đầu của bông hoa được bao phủ bởi một chiếc mũ màu nâu ngồi và xếp chồng vàng trên tấm thảm. Áo sơ mi của Lee bị người ta kéo ra, khăn tắm trên đầu cũng được cởi ra. Lũ trẻ mải mê ngắm nhìn bức ảnh con gà mái mà quên mất cô em gái ven đường đang gọi. Các cô gái ôm nhau cười nói bên cạnh người đàn ông bán pháo hoa dưới gốc cây đa. Mẹo cuối cùng là màu đỏ cam như son. Thúng xôi đầy như núi tuyết, mão gà đen như máu,

Người mua giữ đoạn đường nối để xem.

Chợ rất vui vẻ cho đến khi màn đêm buông xuống, khi tiếng chuông chùa ngân vang buổi tối, trên đường về các bản xa, đồng hương đổ về rất đông. Nắng vàng tiếp tục trên cỏ,

Lá đa nằm rải rác quanh gian hàng chợ.

Đoàn Văn Cừ – 1939. Bài thơ đăng lần đầu trên tờ Ngày nay.

Đọc lại bài thơ, ta nghĩ vẫn còn nghe được tiếng cười sảng khoái, hóm hỉnh, nhân hậu của một thi sĩ quê mùa. Chép và nghiên cứu bài thơ, tôi coi đó là một sự tri ân, một kỷ niệm đối với những người dân làng quê bình dị, đẹp đẽ.

Trong biểu tượng của văn hóa thế giới: chợ, theo quan niệm của người Trung Hoa cổ đại, là nơi trao đổi, mua bán, đồng thời là nơi hò hẹn, giao duyên, nơi diễn ra nghi lễ cầu mưa, mùa màng bội thu, cầu tài lộc. cầm. nơi đo. Chúa phù hộ … Ngay cả từ điển cũng nói điều này đúng đến nỗi nếu ông muốn trời tạnh mưa, phụ nữ nên bị cấm vào chợ. [Nói vui: Phụ nữ không được đi chợ, đi chợ là có thật, đàn ông đói lắm [vì bếp đói], còn phụ nữ thì không vui: “Môn thể thao yêu thích của phụ nữ là đi chợ! “Kỳ nghỉ Tate không chỉ dành cho chị em.] Thực tế, theo biểu tượng văn hóa thế giới, chợ còn là nơi giao hòa âm dương, là chốn bình yên.

Kết cấu không gian của bài thơ hài hòa, không ồn ào, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ gồm ba khổ: khổ 1, 15 dòng; cỡ 2, 23 dòng; Kích thước 3, 6 dòng cách nhau bằng dấu hoa thị. Khổ 1 và 3 là chuyện bình thường, con người. Riêng khổ 2, là trọng tâm của bài thơ [khổ lớn nhất], chỉ nhằm mục đích quan sát và miêu tả con người trong cử chỉ, dáng điệu, giọng nói [cười, nói] và sinh hoạt của họ. Nếu số dòng thơ ở khổ 1 tương đối cân đối giữa thiên nhiên và con người [8/7] trên đường đi chợ; Thì trong clip 3 thiên nhiên đánh người [5/1]: cảnh chợ búa, [gợi nhớ về em bé Thatch Lam].

Trong khổ thơ 2, chợ hiện lên ở chốn thiên nhiên; Người kể chuyện hướng cái nhìn nhẹ nhàng của mình về chủ thể con người vào Người kể chuyện. Không gian trong văn bản nghệ thuật là “một tập hợp các sự vật cùng loại” và “giữa chúng có những quan hệ như quan hệ không gian thông thường [liên tục, khoảng cách…]” [Yu. Lotman]. Những từ ngữ biểu thị quan hệ không gian [trên và dưới, trong và ngoài] trong bài thơ Đổi kênh của Đoàn Văn Cừ rất chậm rãi, nhẹ nhàng, từ tốn kết hợp với một lễ hội màu sắc tươi vui: dải mây trắng dần qua. đỉnh núi, / Sương xanh hồng ôm lấy trần Có mái che, / Trên đường viền trắng sườn đồi xanh. Từ không gian tĩnh và không gian khách quan với sự giao tiếp xa, ta chuyển sang không gian động và không gian chủ thể của sự giao tiếp thân mật, gần gũi thông qua các động từ vận động: “Sương trắng như giọt sữa / Tia nắng tím le lói trên ruộng lúa / Núi quằn quại áo xanh / Đồi đỏ nằm dưới ánh bình minh Ở cả hai cảnh, không gian được bố trí theo trục dọc trên – dưới: từ đỉnh núi xuống đường; từ ngọn cây đến ruộng lúa, từ núi xuống khu vực tiếp xúc dần dần sáp nhập vào không gian công cộng mà con người sinh sống.

Cùng với sự vận động của thiên nhiên, “người ta hớn hở đi chợ Tết”: nam nữ, già trẻ, có lẽ người bán nhiều hơn người mua [chỉ đến cuối khổ 2 [dòng 38] ta mới thấy có nhiều người bán hơn. hơn người mua [chỉ ở cuối khổ 2 [dòng 38]]: “Người mua giơ chân lên để xem” một con gà. Ngoài ra, từ “bán” vẫn thịnh hành: một người buôn tranh ngồi giữa một bán; bà già bán sạp; người bán pháo]. Người đi xem Chợ Tết với nhiều âm thanh khác nhau: tiếng cười nói khe khẽ; nói nhảm; Đọc tâm trí là tiếng cười sảng khoái …

Có hai mệnh đề được tách biệt duy nhất: chúng không liên quan đến trước hoặc sau. Mở đầu Phần 2: “Người mua và người bán ra vào cổng chợ”. [Dòng 16] Và mở đầu khổ thơ 3: “Chợ phiên vui vẻ cho đến khi đêm về gần”. [dòng 39]. Cả hai câu đều được đặt ở đầu mỗi đoạn văn để thông báo ngắn gọn điều gì sắp xảy ra và điều gì sẽ kết thúc. Sau câu 16 trở đi, gần như những câu ngắt thành một dòng có khoảng cách đều trở thành một cặp câu đủ để tạo nên hình ảnh: “Con trâu đứng vật vờ ngủ nhắm mắt / Nghe khách nói boo”. Rồi: “Người buôn tranh chăm đôi, / Tìm chỗ đông người ngồi bán”. … Cứ như vậy, cả hai độc giả sẽ được thưởng thức mười cảnh quay rất vui nhộn về sinh hoạt của con người với những con người, giọng nói, cử chỉ và màu sắc đẹp đẽ. Cũng với cách ngắt câu rất chính xác: 4 câu đầu và 4 câu cuối của khổ thơ 1 hoàn toàn là hình ảnh thiên nhiên “dưới ánh bình minh” và con người làm trung tâm.

Xem thêm  Giải đáp Em hiểu như thế nào là cụm từ Hệ quản trị cơ sở dữ liệu

Cặp câu cuối của bài thơ vẫn sặc sỡ nhưng bớt tươi vui: “Nắng vàng trên ngọn cỏ đung đưa, / Lá đa rơi quanh gánh chợ”. Những dòng chữ punk bẩn thỉu với một chút âm u và u ám tương phản với bầu không khí huyên náo bên trên.

Nhận xét về câu kết trong bài thơ của Đoàn Văn Cừ, các tác giả Thi nhân Việt Nam viết: “Những câu này khép lại thế giới, mở ra thế giới: khép lại một thế giới thực, và mở ra một thế giới mới. Một thế giới mộng. Một khi cảnh tan. , lòng cũng ráp. Mắt chẳng thấy gì mà lòng buồn ”.

Có lẽ “thế giới của những giấc mơ” nằm trong cách phối màu của bài thơ. Chúng tạo thành những hình ảnh “thu thập” bên cạnh nhau, “độc lập” với nhau, ồn ào và náo nhiệt. Khu vực phòng trưng bày các màu sắc mà tông màu chủ đạo là ấm áp: đỏ. [Trong các biểu tượng văn hóa thế giới, màu đỏ được coi là “biểu tượng cơ bản của bản chất sống”, là “màu của ngày, sự tích cực”, cuộc sống, sự duyên dáng và thông điệp của hy vọng, “đến từ mặt trời và là màu sắc nhất màu siêu phàm ”… cũng là màu của tình cảm.] Màu đỏ và các “họ hàng” đậm và nhạt của nó [hồng, hồng, phi, tím] đi lùi 9 lần, xấp xỉ cả chiều dài của đĩa Chợ Tết được trải ít hơn tổng các màu còn lại một chút: 4 chữ trắng; 4 từ xanh lá cây, xanh lam, xanh da trời; 3 từ vàng 1 từ nâu. Đặc biệt, con bò vàng [dòng 11] và cọc vàng [dòng 28], đề cập đến một chất tương phản với ánh sáng mặt trời vàng [dòng 43] biểu thị linh hồn, sự tự phản chiếu. Đối với từ trắng cũng vậy: mây trắng 3 lần đầu [dòng 1]; đường viền trắng [đường 3]; sương trắng [dòng 12] chỉ chất; Số 1 cuối cùng cho biết cả chất tóc trắng [dòng 26] và thời gian.

Các tác giả Thi nhân Việt Nam đã nhận xét rất tinh tế về hai câu thơ này: “Đôi khi giữa những miêu tả hạn hẹp, một câu văn đột ngột bật ra, lóe lên như một ngọn đèn giữa bức tranh:

Bà già bán hàng cạnh chùa cổ, Nước gội đầu bạc trắng.

Bây giờ, nhìn vào cấu trúc bài thơ, hai dòng này là 24 dòng trên và 18 dòng dưới, cũng được coi là “bức tranh giữa bức tranh” như trên. Đây là hai câu đặc sắc hiếm hoi nói về đặc điểm của thời gian: một bà già; Miếu Cổ Nước Thời Tóc bạc trắng dấu vết thời gian ở hai đầu câu thơ, tạo nên hình ảnh vừa tĩnh lặng vừa chuyển động của thời gian.

Đọc lại Chợ Tết, ta chợt cảm nhận được niềm vui rộn ràng trước sự chuyển động của không gian, sắc màu và con người. Họa sĩ “hồn nhiên” Đoàn Văn Cừ đã cung cấp một “nguồn gốc sống” trong sự hiện diện hồn nhiên, hỗn độn nhưng nhịp nhàng của cuộc sống. Trong cuộc đời ấy, con người là trọng tâm trong tầm nhìn và sức sáng tạo nghệ thuật của ông: con người là trung tâm của từng âm tiết; Con người là trung tâm [đoạn 2] của toàn bộ phiên chợ Tết, nhưng thời gian ở giữa trung tâm đó. Thời gian sẽ chia cắt các thế giới cho mỗi số phận; Nhưng đồng thời sẽ làm cho những tác phẩm nghệ thuật đích thực bền vững hơn, cho nền tảng văn hóa sâu sắc của mỗi cộng đồng dân cư Chợ Tết.

Theo Evan

Tags: văn học, tết ​​nguyên đán

Làng Thơ Việt Nam lại vừa mất đi một hồn thơ lặng lẽ và khiêm nhường: nhà thơ Đoàn Văn Cừ [*]. Phiên Chợ Tết bất hủ của ông đã đi vào tâm trí người đọc nhiều thế hệ; “chuỗi cười ngũ sắc” [Thi nhân Việt Nam] dạt dào sự sống, niềm yêu đời, cái nhìn bao dung, nhân ái đó đã đi vào tâm hồn ta.“Tiếng cười ta còn nghe văng vẳng thì người đã biến đâu rồi và ta đành chờ mùa xuân khác”.

[Thi nhân Việt Nam]

Đọc lại bài thơ ta tưởng như còn nghe thấy tiếng cười khúc khích, hóm hỉnh, lại rất hiền lành của một nhà thơ thôn dã. Chép lại bài thơ và tìm hiểu nó, tôi coi như một niềm thành kính, một nén tâm hương tưởng nhớ đến con người của những vẻ đẹp Thôn ca bình dị. [Những con số đứng đầu dòng thơ là do tôi đánh để tiện phân tích].                        *Trong biểu tượng văn hoá thế giới: chợ, theo quan niệm của Trung Hoa cổ vừa là nơi trao đổi, mua bán, còn là địa điểm hẹn hò yêu đương, nơi diễn ra các nghi lễ cầu mưa, sản xuất dồi dào, cầu trời phù hộ… Từ điển còn cho biết điều này đúng đến mức nếu muốn trời thôi mưa phải cấm phụ nữ bước vào chợ. [Nói cho vui: Cấm chị em đi chợ thì chợ thiệt, đàn ông thiệt [vì bếp đói], chị em cũng chẳng vui vẻ gì: “Môn thể thao ưa thích nhất của phụ nữ là đi chợ”! Riêng với chợ trong những ngày Tết thì không chỉ có chị em]. Thực ra, vẫn theo biểu tượng văn hoá thế giới, chợ còn là nơi giao hoà âm dương, là địa điểm thái bình.Cấu trúc không gian của bài thơ hài hoà và tấp nập, đan xen thanh bình giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ gồm ba khổ: khổ 1, 15 dòng; khổ 2, 23 dòng; khổ 3, 6 dòng được ngăn cách bởi các dấu sao. Khổ 1 và khổ 3 đều có thiên nhiên và con người. Riêng khổ 2, trung tâm của bài thơ, [lớn nhất], chỉ dành để quan sát, miêu tả con người trong những cử chỉ, dáng điệu, âm thanh [cười, nói] cùng những hoạt động của họ. Nếu như ở khổ 1, số dòng thơ tương đối cân bằng giữa thiên nhiên và con người [8/7] trên đường đến chợ; thì ở khổ 3 thiên nhiên lấn át con người [5/1]: cảnh chợ vãn, [gợi nhớ đến Hai đứa trẻ của Thạch Lam].Trong khổ 2, chợ xuất hiện thay chỗ cho thiên nhiên; “người kể chuyện” hướng cái nhìn đôn hậu của mình vào đối tượng là con người để “tự sự”. Không gian trong văn bản nghệ thuật là “tổng hợp của các đối tượng cùng loại” và “giữa chúng có các quan hệ giống các quan hệ không gian thông thường [tính liên tục, khoảng cách...]” [Yu. Lotman]. Những từ ngữ chỉ quan hệ không gian [trên, dưới, trong, ngoài] trong thơ Đoàn Văn Cừ “chuyển kênh” rất từ tốn, nhẹ nhàng, chậm rãi cùng với một lễ hội của sắc màu tươi vui, rực rỡ:
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,Sương hồng lam ôm ấp mái nhà tranh,

Trên con đường viền trắng mép đồi xanh.

Từ không gian tĩnh, khách quan được tiếp xúc từ xa này chúng ta chuyển sang không gian động, chủ quan được tiếp xúc thân mật, gần gũi qua những động từ có tính chất vận động:
Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa,Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,

Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.

Trong cả hai cảnh trên không gian được xếp theo trục thẳng đứng trên - dưới: từ đỉnh núi xuống đến con đường; từ đầu cành đến trong ruộng lúa, từ núi xuống đồi. Khu vực tiếp xúc sáp lại dần cho đến không gian công cộng nơi sinh hoạt của con người.

Cùng với sự vận động của thiên nhiên, là con người “tưng bừng ra chợ Tết”: nam, phụ, lão, ấu và có lẽ người bán nhiều hơn cả người mua [chỉ đến cuối khổ 2 [dòng 38] mới thấy có: “Một người mua cầm cẳng dốc lên xem” một con gà. Ngoài ra, từ bán vẫn áp đảo: anh hàng tranh ngồi dở bán; bà cụ lão bán hàng; anh chàng bán pháo]. Người ta đi xem Chợ Tết cùng với âm thanh nhiều cung bậc: cười lặng lẽ; nói bô bô; nhẩm đọc; cười rũ rợi...

Có hai câu đứng độc lập một cách độc đáo: không liên hệ với trước nó và cũng không liên hệ với sau nó. Mở đầu khổ 2: “Người mua bán ra vào đầy cổng chợ” [16] và mở đầu khổ 3: “Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm” [39]. Cả hai câu đều đứng ở đầu mỗi khổ để thông báo ngắn gọn về cái sắp diễn ra và cái sẽ kết thúc. Sau câu 16 trở đi, thì gần như cứ luân phiên một dòng có dấu phảy đến một dòng có dấu chấm thành một cặp câu đủ tạo nên một bức tranh:
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô-bô.
Rồi:
Anh hàng tranh kĩu-kịt quảy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán…
Cứ như thế, cả khổ 2 người đọc sẽ được thưởng thức 10 cảnh rất vui về hoạt động của con người với những âm thanh, cử chỉ cùng sắc màu. Cũng với dấu chấm câu rất cẩn thận như vậy: 4 câu đầu và 4 câu cuối của khổ 1 là những bức tranh hoàn chỉnh về thiên nhiên “nằm dưới ánh bình minh” mà ở giữa đó là con người.Cặp câu kết của bài thơ vẫn có màu sắc nhưng đã bớt nhiều tươi vui:
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê-thê,
Lá đa rụng tơi-bời quanh quán chợ.
Những từ láy lê-thê, tơi-bời vần bằng có chút gì đó của thê lương, ảm đạm đối lập hẳn với không khí náo nhiệt bên trên.

Nhận xét về câu kết trong thơ Đoàn Văn Cừ, các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã viết: “Những câu ấy đều khép lại một thế-giới và mở ra một thế-giới: khép một thế-giới thực, mở một thế-giới mộng. Cảnh vừa tan thì trong lòng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy gì nữa nhưng lòng ta bỗng bâng-khuâng”.

Cái “thế giới mộng” ấy có lẽ còn nằm ở nguyên tắc phối màu của bài thơ. Chúng tạo thành những bức tranh được “lắp ghép” liền kề nhau, “độc lập” bên nhau, hối hả, náo nhiệt. Một khu triển lãm trưng bày sắc màu mà gam chủ đạo là màu nóng ấm: màu đỏ. [Màu đỏ trong biểu tượng văn hoá thế giới được coi là “biểu tượng cơ bản của bản nguyên sống”, là “màu của ngày, của dương tính”, của sự sống, của thiên ân, thông điệp của hy vọng, “phát tiết từ mặt trời và đó là màu siêu việt nhất”… cũng là màu của tình cảm]. Màu đỏ cùng với “họ hàng” đậm nhạt của nó [hồng, son, thắm, tía] trở đi trở lại đến 9 lần, gần như rải suốt chiều dài bức tranh Chợ Tết ít hơn một chút so với tổng các màu còn lại: 4 từ trắng; 4 từ xanh, biếc, lam; 3 từ vàng; 1 từ nâu. Riêng đối với từ vàng thì con bò vàng [11] và đống vàng [28] chỉ vật chất đối lập với ánh dương vàng [43] chỉ tinh thần, hướng nội. Cũng tương tự như vậy với từ trắng: 3 lần đầu mây trắng [1]; con đường viền trắng [3]; sương trắng [12] chỉ vật chất; 1 lần cuối vừa chỉ vật chất tóc trắng [26] vừa chỉ thời gian.

Các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã nhận xét rất tinh tế về hai câu thơ này: “Thỉnh thoảng giữa những câu tả chân chặt chẽ, chen vào một câu bất ngờ, vụt ngời lên như một luồng sáng giữa bức tranh:


Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Giờ đây khi nhìn vào cấu trúc bài thơ thấy trên hai câu này là 24 dòng và dưới nó là 18 dòng, cũng coi như nằm “giữa bức tranh” đúng như nhận định bên trên. Đây là hai câu tuyệt bút hiếm hoi về thời gian và đậm đặc tính thời gian: bà cụ lão; miếu cổ; nước thời gian; tóc trắng in dấu vết thời gian đều đứng án ngữ ở hai đầu hai câu thơ tạo nên một bức tranh vừa im lìm vừa chuyển động của thời gian.                                 *

Đọc lại Chợ Tết ta bỗng thấy hân hoan, vui thích bởi sự chuyển động của không gian, sắc màu và con người. Nhà hoạ sĩ “ngây thơ” Đoàn Văn Cừ đã trình bày cho ta biết một “bản nguyên sống” trong sự tồn tại hồn nhiên, bề bộn mà lại nhịp nhàng của đời sống. Trong đời sống đó, con người là trung tâm trong cái nhìn và sáng tạo nghệ thuật của ông: Con người là trung tâm trong mỗi khổ thơ; con người lại là trung tâm [khổ 2] của toàn phiên Chợ Tết mà ở giữa trung tâm đó lại là thời gian. Cái thời gian sẽ chia cách hai thế giới đối với mỗi số phận; nhưng cũng cái thời gian đó sẽ làm bền vững hơn cho những tác phẩm nghệ thuật đích thực, cho nền tảng văn hoá sâu xa của mỗi cộng đồng người mà Chợ Tết là muôn một.

* Đoàn Văn Cừ mất ngày 27/6/2004, thọ 92 tuổiHà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2004

Đào Duy Hiệp

tửu tận tình do tại

Thanh Huyền

Mùa xuân đã về trên khắp các thôn, bản quê hương. Những ngày xuân tràn đầy sức sống mới, những người yêu văn hóa dân gian lại bồi hồi nhớ về tết cổ truyền xưa qua những vần thơ trong bài thơ “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ.

Mở đầu bài thơ, ông miêu tả một ngày mới bắt đầu nơi thôn dã. Dải mây trắng trên đỉnh núi đang đỏ dần lên. Làn sương sáng được ánh mặt trời rọi chiếu như viên ngọc hồng lam đang ôm ấp nóc nhà gianh nơi thôn xóm. Những con đường quê uốn lượn ở mép đồi như những dải lụa màu xanh đưa bước chân người các ấp hớn hở, tưng bừng đi chợ tết.

“Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi

Sương hồng lam e ấp nóc nhà tranh

Trên con đường viền trắng mép đồi xanh

Người các ấp tưng bừng ra chợ tết”....

Chỉ với vài câu thơ, Đoàn Văn Cừ đã làm lột tả được cái hồn của con người quê:

“Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon

Vài cụ già chống gậy bước lom khom

Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ

Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ

Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu

Con bò vàng nghộ nghĩnh đuổi theo sau” ...

Trong những bước chạy “lon xon” của các cậu bé là cả một tâm trạng háo hức, một niềm vui ngây thơ của trẻ nhỏ trong ngày chợ tết được mặc áo mới, được chơi đùa thỏa thích. Hành động “nép đầu bên yếm mẹ” miêu tả sự rụt rè, nhút nhát, bỡ ngỡ của những em nhỏ thôn quê lần đầu được đến với một phiên chợ tết thấy bao điều mới mẻ, lạ lẫm... Người xen cảnh, cảnh xen người, người đọc chưa kịp hình dung hết vẻ đẹp của cảnh vật đã bị cuốn vào thế giới sinh hoạt rộn rã, hối hả nhưng cũng rất tưng bừng “Người mua bán ra vào đầy cổng chợ”.

Đoàn Văn Cừ tả cảnh sinh hoạt ở phiên chợ bằng những câu thơ giản dị, như lời nói thường ngày của người dân quê nhưng lại toát lên được vẻ sôi động của phiên chợ, với đầy đủ những con người quê cùng chung một tâm trạng vui vẻ:

Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà

Quên cả chị bên đường đang đứng gọi

Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi

Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.

Đám chợ như một đám hội thật đông đúc không hề hối hả, vội vã như những phiên chợ thường ngày bởi người ta đi chợ tết không phải chỉ để mua bán mà còn là để đi chơi xuân:

Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản

Tay mài nghiên hý hoáy viết thơ xuân

Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm

Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.

Tác giả còn xen vào bài thơ những chi tiết ngộ nghĩnh nhưng không phồn tục: Con gà trống màu thâm như cục tiết /Một người qua cầm cẳng dốc lên xem. Đây là món hàng không thể thiếu của phiên chợ tết vì “con gà sống” là vật tế dâng lên bàn thờ tổ tiên vào phút giao thừa thiêng liêng để cầu mong một năm mới an khang, thịnh vượng, đó là một phong tục đẹp của người Việt từ bao đời.

Tâm sự về bài thơ, lúc đương thời thi sĩ cho biết: “cái chợ này là hồn vía của người Việt mình ở miền Bắc, mấy năm trước, bên làng Lao có một đoàn người sang gặp tôi cho rằng, đó chính là phiên chợ của làng họ, họ xin phép tôi cho khắc đá bài thơ” [Trích bài phỏng vấn của Y Ban – phóng viên giáo dục và thời đại năm 2004].

Giống như những ngôi làng khác ở Bắc Bộ, làng Đô Quan quê hương Đoàn Văn Cừ có nhiều đền, đình, chùa, miếu với nhiều lễ hội kì thú. Đó cũng là nguồn cảm hứng cho nhà thơ viết nên những bài thơ: “Làng”, “Trăng he”, “Ngồi đình”, “Tế thánh”, “Năm mới”, “Chợ làng vào xuân”... Và không chỉ ở riêng làng Đô Quan, Đoàn Văn Cừ còn được tham gia lễ hội ở các làng lân cận như lễ hội chùa Cổ Lễ, hội chùa Keo, hội chợ Yên, hội chợ Viềng... đã giúp ông sáng tạo nên: “Đám cưới mùa xuân”, “Đám hội”... và đặc biệt là “Chợ tết”.

Đọc và cảm nhận bài thơ, tôi như lạc vào một bức tranh dân gian Đông Hồ đẹp và sinh động. Nếu như nghệ sĩ tranh dân gian dùng màu vẽ lấy từ những gì mộc mạc nhất của tự nhiên thì, Đoàn Văn Cừ cũng lấy chất liệu từ đời sống dân gian hết sức mộc mạc. Ông đã tạo nên bức tranh chỉ với những nét phác thảo giản dị nhưng đầy màu sắc về bối cảnh một phiên chợ tết tươi vui, ngộ nghĩnh. Đồng thời, đem đến cho người đọc sự khát khao một lần được tham gia vào phiên chợ quê truyền thống, được ngắm “những mẹt cau đỏ chót tựa son pha”, hòa mình vào không khí Tết cổ truyền mà nhịp sống hiện đại đã làm mai một đi phần nào nét văn hóa đẹp đó.

Thanh Huyền

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề