Tiêu luận học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

tiểu luận học tập tư tưởng đạo đức hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [218.46 KB, 37 trang ]

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU................................................................................................
B. NỘI DUNG............................................................................................
Chương1: Công tác tư tưởng với việc đẩy mạnh cuộc vận động
“học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh” trong giai đoạn hiện
nay.
1.1. Đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh............................................
1.1.1. Đạo đức..............................................................................
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh..........................................................................
1.1.3. Nội dung và vai trò của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.............................................................................................
1.2. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay...........................................
1.2.1. Mục đích, yêu cầu..............................................................
1.2.2. Nội dung cuộc vận động từ 2007 - 2011..........................
1.2.3. Vai trò của công tác tư tưởng đối với cuộc vận động......
1.3. Sự cần thiết phải đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"..................................
Chương2: Thực trạng cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh".................................................................
2.1. Thực trạng của cuộc vận động.................................................
2.1.1. Kết quả đạt được và những nguyên nhân của kết quả
đó...................................................................................................
2.1.2. Nhược điểm và hạn chế......................................................
2.2. Một số kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra đối với cuộc vận
động.............................................................................................................

1



Chương 3:Một số giải pháp nâng cao chất lượng cuộc vân động
“học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
3.1. cần nâng cao và tạo sự thống nhất về nhận thức của cán bộ,
đảng viên và nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong giai
đoạn hiện nay.
3.2.nêu cao ý thức trách nhiệm và vai trò gương mẫu thực hiện
của cấp ủy và những người đứng đầu.
3.3.coi trọng và phát huy ý thức tự giác của mỗi cán bộ, đảng
viên, công chức trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh
3.4.động viên đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực
tham gia cuộc vận động, gắn các nội dung và hình thức tiến hành cuộc
vận động với các nội dung, các mặt công tác của từng cơ quan, đơn vị.
3.5.kết hợp chặt chẽ giữa nội dung của cuộc vận động với việc
thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tham ô, hối
lộ và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng

C. KẾT LUẬN...........................................................................................
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Cứ mỗi lần nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta lại không
khỏi bồi hồi xúc động thương nhớ Bác, càng thấm thía và biết ơn công lao
trời biển của Bác - người anh hùng giải phóng dân tộc; danh nhân văn hóa
thế giới; người chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường; người sáng lập, lãnh

đạo và rèn luyện Đảng ta, Nhà nước ta; người tượng trưng cho tinh hoa trí
tuệ và khí phách của người Việt Nam. Không biết tự bao giờ câu thơ
"Tháp Mười đẹp nhất bông sen - Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ" đã đi
sâu vào tiềm thức mỗi con người Việt Nam, lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác một sự yêu thương, kính trọng vô cùng.
Ở Hồ Chí Minh, sáng ngời lên đó là một tấm lòng thương yêu con
người, thương yêu nhân dân hết sức bao la, sâu sắc; Người đã từng khái
quát về triết lý cuộc sống: "Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời
và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân,
thương nhân loại khổ đau bị áp bức". Và theo Người: “Muốn có xã hội
chủ nghĩa thì phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đó là đức: Cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư, là lối sống và chính phong trào làm việc
của Người. Trong giai đoạn hiện nay trước rất nhiều vấn đề của xã hội,
việc nghiên cứu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
hết sức cần thiết và quan trọng. Như chúng ta đã biết hiện nay tình trạng
suy thoái về đạo đức, lối sống trong xã hội, đặc biệt trong một số bộ phận
cán bộ có chức có quyền đang nổi lên như một nguy cơ đáng lo ngại, nó
làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Một số nơi,
tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ đã thực sự trở thành
vấn đề chính trị. Có nhiều nguyên nhân, nhưng không thể quy tất cả cho
nguyên nhân khách quan: Mặt trái của cơ chế thị trường, âm mưu diễn

3


biến hòa bình của các thế lực thù địch… mà phải thấy hết những yếu kém
chủ quan trong lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự buông lỏng giáo dục
đạo đức, coi nhẹ việc tu dưỡng và rèn luyện đạo đức. Như vậy việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người là một biện pháp quan
trọng để mọi cán bộ đảng viên và các tổ chức Đảng sửa chữa, khắc phục

tình trạng suy thoái "có tính nghiêm trọng, về đạo đức, lối sống, giữ vững
niềm tin của nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng. Không chỉ đối với cán bộ,
đảng viên mà đối với từng cá nhân, mỗi người cũng cần phải có ý thức tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, nâng cao ý thức trách nhiệm với đất nước, giữ
gìn phẩm giá con người. Đây là cơ sở để hoàn thiện bản thân mỗi người,
mọi sự buông thả, thiếu ý thức tự giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng xa rời
sự quản lý, giáo dục của tập thể, cộng đồng, đoàn thể và gia đình là con
đường dẫn tới hư hỏng, tự đánh mất bản thân mình. Đánh giá đúng tình
hình của đất nước trong thời kỳ đất nước tiến hành hội nhập, Bộ Chính trị
khoá X đã ban hành chỉ thị 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động "Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong toàn Đảng, hệ thống
chính trị. Và để cuộc vận động đạt được kết quả tốt, tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ đòi hỏi chất lượng của công tác tư tưởng rất cao. Chính vì thế,
em xin lựa chọn đề tài: "Vai trò của công tác tư tưởng đối với việc đẩy
mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" trong giai đoạn hiện nay".
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
2.1. Mục đích:
-Hiểu rõ thêm về đạo đức, đạo đức Hồ Chí Minh và vai trò của nó
trong xã hội và vì sao phải học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.

4


-Đối với cuộc vận động, vai trò Công tác tư tưởng đã phát huy như thế
nào và đã đạt kết quả ra sao? để từ đó đề ra các giải pháp để nâng cao
chất lượng của cuộc vận động, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận
thức và hành động.


2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
-Làm rõ sự cần thiết của Công tác tư tưởng đối với cuộc vận động.
- Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp để phát huy vai trò.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng.
“Vai trò của Công tác tư tưởng đối với cuộc vận động học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” là
trọng tâm đề tài nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu trên phạm vi cả nước, đối với tất cả mọi đối tượng, mọi hệ
thống chính trị. Phấn đấu toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cùng học tập,
làm theo.
Thời gian bắt đầu từ tháng 11-2006 [sau khi ban bí thư ra chỉ thị về
cuộc vận động] đến năm 2010. Mỗi năm sẽ có một nội dung học tập cụ
thể.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
-Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm Chủ Nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
-Phương pháp nghiên cứu: Quy nạp, diễn dịch, tổng hợp, điều tra,
nghiên cứu, phân tích tài liệu.
5


5. Ý nghĩa đề tài.
Đề tài là kết quả của sự vận dụng kiến thức của môn Nguyên lý Công
tác tư tưởng vào cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”. Đề tài là kết quả của quá trình tập dượt nghiên cứu
khoa học.
6. Kết cấu đề tài.
Bài tiểu luận gồm có 3chương. Ngoài ra có phần mở đầu, phần kết

luận và danh mục tài liệu tham khảo.

6


B:NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VỚI VIỆC ĐẨY MẠNH CUỘC VẬN ĐỘNG
"HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH" TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh
1.1.1. Đạo đức
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội,
bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội
thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong
quan hệ với người khác và toàn xã hội. Đạo đức là một phạm trù lịch sử,
kết quả của quá trình phát triển của xã hội loài người. Đạo đức thuộc kiến
trúc thượng tầng, chịu sự quy định của cơ sở hạ tầng. Sự thay đổi của hạ
tầng kinh tế - xã hội làm thay đổi các chuẩn mực của đạo đức xã hội. Tuy
nhiên, nhiều chuẩn mực, giá trị đạo đức như nhân đạo, dũng cảm, vị tha…
có ý nghĩa toàn nhân loại và tồn tại phổ biến trong các xã hội khác nhau.
Do tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội nên trong xã hội có giai cấp, đạo
đức mang tính giai cấp. Trong xã hội có các giai cấp đối kháng, chuẩn
mực đạo đức của giai cấp thống trị chiếm vị trí chi phối đạo đức xã hội.
Và cũng do hành vi đạo đức bắt nguồn từ ý thức đạo đức nên đạo đức
thường tỷ lệ thuận với trình độ học vấn, trình độ nhận thức của mỗi cá
nhân. Nhưng không phải cứ có trình độ học vấn cao là có trình độ văn
hóa, đạo đức cao và ngược lại, bởi sự khác biệt và có khoảng cách giữa ý
thức và hành vi đạo đức, giữa nhận thứ và hành động của mỗi người.


7


Trong đời sống xã hội, đạo đức chiếm một vai trò quan trọng, là nền
tảng tinh thần của xã hội. Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Trong xã hội, sự
khủng hoảng của đạo đức, sự "lệch chuẩn, loạn chuẩn" đạo đức là một
trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã
hội…
Trải qua 4000 năm dựng nước và giữ nước các chuẩn mực, các giá
trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta vẫn được tồn tại và phát triển. Đó là
truyền thống yêu quê hương đất nước; gắn bó với thiên nhiên, với cộng
đồng; đoàn kết, thủy chung, nhân ái, quý trọng nghĩa tình; cần cù; yêu lao
động; dũng cảm, kiên cường, hiếu học, sáng tạo… trong sự nghiệp đổi
mới đất nước, truyền thống đạo đức của dân tộc đã được phát triển và bổ
sung thêm những giá trị mới. đó là những phẩm chất đạo đức mới, tiến bộ
được xã hội thừa nhận như: sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm, quyết tâm vượt khó, quyết chí làm giàu, đoàn kết
giúp nhau cùng phát triển, xây dựng đời sống văn hóa…
Truyền thống đạo đức của dân tộc và những giá trị đạo đức mới tốt
đẹp hình thành trong điều kiện mới là xu thế chủ đạo, quy định chiều
hướng phát triển của đời sống xã hội ta trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không nên lẫn lộn hai phạm
trù: đạo đức và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Nói đến đạo đức Hồ Chí
Minh, dù người nghiên cứu không quên bình diện lý luận khi phân tích
tấm gương đạo đức của Người trong hoạt động thực tiễn, thì ý nghĩa và
phạm vi, đối tượng nghiên cứu cũng khác với việc nghiên cứu tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Cũng là nghiên cứu đạo đức Hồ Chí Minh nhưng


8


một khi đã nâng bình diện nghiên cứu không còn dừng ở những phẩm chất
và tấm gương của riêng Người mà là hệ thống tư tưởng đạo đức của
Người thể hiện trong toàn bộ hoạt động thực tiễn cách mạng do Người
lãnh đạo lại là vấn đề khác nhau. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự hiện diện
của một tấm gương tuyệt vời và các hành vi ứng xử trong hoạt động thực
tiễn của Người. Còn tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nếu được nghiên cứu
và khẳng định rõ ràng thì đó là một khoa học, khoa học đạo đức hay đạo
đức học mang tên Hồ Chí Minh. Đó sẽ là một cống hiến có giá trị lý luận
vô cùng quan trọng trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại Hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và của cách mạng Việt Nam”. Đại hội IX của Đảng chỉ rõ:
"Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại". Nói một cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh chính
là học thuyết về cách mạng Việt Nam. Nhờ học tập và làm theo tư tưởng
Hồ Chí Minh mà cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những
thắng lợi to lớn: Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng: tư tưởng về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm chính, chí công
vô tư, về chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ…
Quan điểm về đạo đức của Bác Hồ rất cao sâu, đề cập chung cho tất
cả và cho mỗi đối tượng cán bộ và nhân dân. Ai cũng có thể tìm thấy phần
mình trong những lời dạy của Bác. Đó là "trung với nước, hiếu với dân";

Là "quan tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng"; "Hết lòng hết
sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương
9


mẫu trong mọi việc". Là "nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm"; "cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư". Là "không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền đào núi và lấp biển - quyết chí ắt làm nên". Là "nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", "cần kiệm, liêm chính, chí công vô
tư". Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã từng nói: Bác Hồ của chúng ta là con
người mà "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển
lay, uy quyền không thể khuất phục"; con người "cần kiệm, liêm chính,
chí công vô tư". Toàn bộ cuộc đời của Người toát lên chủ nghĩa nhân văn
cao đẹp, chủ nghĩa nhân văn cộng sản.
Về bản thân con người Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về
đạo đức cho toàn Đảng, toàn dân ta. Sở dĩ gọi là tấm gương vì mọi người
đều thấy Người không phải chỉ nêu lên những tư tưởng đạo đức lớn, mà
còn gương mẫu thực hiện những tư tưởng ấy. Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng
đạo đức luôn gắn với hành vi đạo đức, động cơ luôn gắn với hiệu quả, nói
luôn đi đôi với làm. Đây là điều mà không phải bất cứ nhà tư tưởng, nhà
lãnh đạo nào cũng làm được. Một người có thể là một nhà đạo đức học
hay một nhà lãnh đạo nêu ra được những tư tưởng có giá trị về đạo đức,
đóng góp vào sự phát triển tư tưởng đạo đức chung nhưng lại không phải
là tấm gương đạo đức cho thiên hạ, nếu người đó không thực hiện những
tư tưởng đạo đức mà mình đã đề ra. Bản thân Hồ Chí Minh là hiện thân
của đạo đức. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tuyệt vời trong sáng,
tuyệt vời trọn vẹn với quan điểm "trung với nước, hiếu với dân", cuộc đời
của Bác là cuộc đời của một người tận trung với nước, tận hiếu với dân,
nghĩ gì, làm gì cũng đều vì nước, vì dân. Trong "Di chúc" Người đã viết:
"Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải

hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa". Khi Bác nói về cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư thì cuộc đời
10


của Bác là cuộc đời của một bậc đại nhân, đại đức, đại trí, đại dũng, đại
nghĩa, đại liêm. Là Chủ tịch một nước mà Bác vẫn luôn sống một "cuộc
đời thanh bạch chẳng vàng son"; một chiếc giường đơn sơ và những bữa
ăn đạm bạc, bộ quần áo kaki và đôi dép cao su…
1.1.3. Nội dung và vai trò của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ truyền thống đạo
đức của dân tộc Việt Nam, Người đã tiếp thu và bồi đắp thêm bằng nhận
thức thực tiễn cách mạng và lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức, trước hết là đạo đức cách mạng, là một bộ phận
quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Bác nói: "Cách mạng là
phá cái cũ, đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt" [Đường Kách mệnh,
1927]. Người cách mạng không chỉ cần có tư tưởng cách mạng, có chủ
nghĩa đúng đắn dẫn đường mà còn phải có đạo đức cách mạng: "Cũng như
sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Đạo
đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng… Ở Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đạo đức cách mạng và chính trị có mối quan hệ hữu cơ rất chặt chẽ.
Bởi vậy, Người được nhân dân Việt Nam ca ngợi là "Người Việt Nam đẹp
nhất", được nhân dân thế giới tôn vinh là "nhân cách của con người thời
đại cho mọi thế hệ".
Đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng trong xã hội và trong đời
sống của mỗi người. Là người mở đường xây dựng nền độc lập cho Tổ
quốc, đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cách

mạng.

11


Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức
được nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, được đề cập một cách toàn diện.
Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã
hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ giai đoạn đến xã
hội, trong cả ba mối quan hệ của con người đối với mình, đối với người, đối
với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo
đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền.
Trong bản "Di chúc" bất hủ, Người viết: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực
sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư". Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng trong từng thời kỳ nhất định, Người đã khái quát thành những
phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Nói cách khác đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới,
đạo đức cách mạng Việt Nam.
a. Trung với nước, hiếu với dân.
Trung với nước là chuẩn mực phủ định đạo đức truyền thống "trung
với vua". Theo Hồ Chí Minh: Cả cuộc đời tuyệt đối trung thành với lý
tưởng của cách mạng và quân đội; phải luôn luôn dặt lợi ích của dân tộc,
của đất nước lên trên lợi ích cá nhân. Bản thân mỗi người phải phấn đấu
hết mình vì lợi ích tối cao của dân tộc, vì quyền lợi cơ bản của nhân dân.
Hiếu với dân là quan điểm phát triển so với truyền thống. Hiếu với dân là
yêu kính nhân dân, là hết lòng phục vụ nhân dân; biết đấu tranh để mang
lại quyền lợi cho nhân dân, biết bảo vệ quyền lợi nhân dân. Người cán bộ
Đảng, cán bộ Nhà nước phải là "người lãnh đạo, là người đầy tớ trung
thành của dân". Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần

dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân
tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ
nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước. Và đặc biệt giai đoạn
12


hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa những tác động của nền kinh tế thị
trường đã ảnh hưởng không nhỏ tới các mặt của đời sống kinh tế - xã hội
ở nước ta. Đặc biệt là sự thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo
đức, lối sống… đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Tình hình đó đòi hỏi lòng
"tận trung với nước, tận hiếu với dân" của mỗi người, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ của Đảng của Nhà nước phải càng được nâng cao hơn bao giờ hết.
Nhận thức sâu sắc nguy cơ to lớn này, Đảng và Nhà nước ta đang từng
bước đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh… coi đó là cơ sở nền tảng để
xây dựng và phát triển đất nước.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là trung tâm của đạo đức
cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Nó gắn liền với hoạt
động hàng ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng, của mỗi con người
nói chung, được Người xem là nền tảng của đời sống mới, là mối quan hệ
"với tự mình".
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thực chất là những khái niệm
đạo đức phương Đông, đạo đức truyền thống Việt Nam được Hồ Chí
Minh kế thừa, chọn lọc, phát triển. Người khẳng định: "Bọn phong kiến
ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm mà bắt
nhân dân ta phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay, ta
đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân
theo để lợi cho nước, cho dân".

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện sinh động
của phẩm chất "trung với nước, hiếu với dân". Cần, kiệm, liêm, chính cần
thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:

13


"Trời có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người".
Còn "chí công vô tư" là đề cao chủ nghĩa tập thể. Muốn có chí công
vô tư phải kiên quyết chống chủ nghĩa các nhân. Bởi vì chủ nghĩa cá nhân
là căn nguyên sinh ra các bệnh xấu xa. Đây là chuẩn mực của người lãnh
đạo, người "giữ cán cân công lý", không được vì lòng riêng mà chà đạp
lên pháp luật. Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với
chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược
lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ
thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. Bồi dưỡng phẩm chất này sẽ làm
cho con người vững vàng trước mọi thử thách: "Giàu sang không thể
quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục"
và có thể "trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa đám nhi
đồng".
c. Tình yêu thương con người.
Yêu thương con người, sống có tình, có nghĩa là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương quý trọng con người, sống
có tình, có nghĩa, nâng đỡ con người là đạo lý truyền thống của nhân loại,
dân tộc. Là đạo đức của người cộng sản mà lý tưởng đấu tranh là giải

phóng con người. Theo Hồ Chí Minh, phải yêu thương những người cùng
khổ, người lãnh đạo, người nô lệ trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí: với
mọi người bình thường; những người có sai lầm, khuyết điểm đã nhận rõ
sai lầm, khuyết điểm; cả những người lầm đường, lạc lối đã hối cải; yêu

14


thương những người trong gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào
cả nước và cả loài người. Tình thương của Người bao la: "Tôi chỉ có một
ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập,
dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành"
Người căn dặn toàn Đảng "phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau", sống với nhau phải có nghĩa, có tình nhưng không "dĩ hòa vi quý".
d. Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Đây là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng
sản chủ nghĩa, thể hiện bản chất tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công
nhân và tính chất của xã hội xã hội chủ nghĩa… Nội dung của tinh thần
quốc tế được Hồ Chí Minh diễn tả trong hai câu thơ:
"Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em".
Với nội dung đạo đức nêu trên Hồ Chí Minh xác định những
nguyên tắc, phương pháp tu dưỡng và giáo dục đạo đức cách mạng như:
phải tiến hành thường xuyên một cách tích cực; Nói phải đi đôi với làm,
vừa học tập quần chúng vừa làm gương cho người khác noi theo; xây
dựng, giáo dục phải đi đôi với đấu tranh; phải tiến hành một cách đồng bộ
và phát huy dân chủ.
1.2. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay.

1.2.1. Mục đích, yêu cầu.
a. Mục đích: Làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về
những nội dung cơ bản và giá t rị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng,

15


rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn
xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên,
thanh niên, học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống và các tệ nạn xã hội, phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào vai trò tiên
phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
b. Yêu cầu:
- Tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh" sâu rộng, thiết thực, hiệu quả trong cả hệ thống chính trị và
trong toàn xã hội, không phô trương, hình thức.
- Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phải
gắn liền với việc triển khai thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội X của
Đảng, với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực hiện tiết kiệm,
chống lãng phí và đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng với
các phong trào thi đua yêu nước.
- Tạo ra phong trào thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh sâu rộng trong Đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội và trong
toàn xã hội. Phát hiện và nhân rộng những gương điển hình tiên tiến,
người tốt việc tốt trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
1.2.2. Nội dung cuộc vận động từ năm 2007 đến năm 2011.

Năm 2007: Nâng cao nhận thức về đạo đức và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, tổ chức động viên toàn Đảng, toàn xã hội tích cực tham gia
cuộc vận động. Tổ chức nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức
trong các tác phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá

16


nhân và thực hiện "Di chúc". Kết hợp với việc đẩy mạnh tuyên truyền về
cuộc vận động trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Năm 2008: Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện cuộc vận động, từng bước
đưa nội dung cuộc vận động đi vào chiều sâu. Đồng thời với việc thực
hiện các tiêu chí đạo đức theo tấm gương Hồ Chí Minh, cần nhấn mạnh:
học tập gương Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành tiết kiệm, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu.
Năm 2009: Kỷ niệm 40 năm thực hiện "Di chúc" của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động theo chủ đề và các tiêu chí
đạo đức chung, nhấn mạnh nội dung: Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh
"Nâng cao ý thức trách nhiệm hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân".
Năm 2010: Kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng, 120 năm ngày sinh
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chuẩn bị Đại hội XI của Đảng; tiếp tục các
nội dung đã thực hiện các năm trước, đồng thời chú ý nội dung: học tập và
làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch,
vững mạnh, "là đạo đức, là văn minh".
Mỗi người phải tự liên hệ, tự phê bình, kiểm điểm cá nhân; tổ chức để
quần chúng ở nơi công tác và nơi cư trú góp ý cho cán bộ, đảng viên.
- Các cơ quan, đơn vị xây dựng tiêu chuẩn đạo đức, lối sống cho cán
bộ, đảng viên, công chức để góp phần thực hiện phù hợp với tình hình
từng cơ quan, đơn vị; Xây dựng chương trình hành động học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm,
yếu kém; xử lý các sai phạm được phát hiện theo đúng kỷ luật Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Tổ chức tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng.
17


1.2.3. Vai trò của công tác tư tưởng đối với cuộc vận động này.
Thực hiện chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị về
tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh", các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội đã quan tâm chỉ
đạo, sớm tổ chức triển khai các bước tiến hành cuộc vận động.
Đối với cuộc vận động công tác tư tưởng đã làm tương đối tốt
nhiệm vụ của mình, triển khai một cách có hiệu quả nội dung cuộc vận
động. Công tác tuyên truyền về cuộc vận động được đẩy mạnh với các nội
dung và hình thức phong phú. Tổ chức tốt các buổi nghe giới thiệu các
chuyên đề về đạo đức Hồ Chí Minh, tổ chức học tập, liên hệ, thu hoạch.
Đưa nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào
sinh hoạt hàng tháng của tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị. Phát động tổ
chức cuộc thi "kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" đối với tất
cả các cấp, các ngành, các đơn vị. Qua cuộc thi này mỗi cá nhân sẽ tìm
hiểu thêm được về đạo đức Hồ Chí Minh, thông qua những câu chuyện để
thấy rõ hơn nhân cách, đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng phát động
cuộc thi sáng tác những tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về những
cá nhân, tập thể gương mẫu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
Trong đợt tổng kết cuối năm, các đơn vị, địa phương phải có báo
cáo sơ kết về kết quả sau một năm thực hiện. Mỗi cán bộ, đảng viên phải
tự liên hệ, kiểm điểm về kết quả thực hiện cuộc vận động học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Yêu cầu làm rõ những chuyển
biến, tiến bộ cụ thể so với trước đó và lấy ý kiến đánh giá của quần chúng
nhân dân. Bước đầu đã thu được nhiều kết quả tốt, tạo tiền đề quan trọng
và cần thiết để đẩy mạnh cuộc vận động trong thời gian tới. Tuyệt đại đa
số cán bộ, đảng viên và nhân dân đã nhận thức rõ hơn ý nghĩa, tầm quan

18


trọng của cuộc vận động, đánh giá việc Trung ương phát động cuộc vận
động này là đúng và "trúng"., đáp ứng được tình cảm và lòng mong đợi
của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân… Niềm tin của cán bộ, đảng
viên và nhân dân vào thành công của cuộc vận động được nâng lên.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền vẫn còn một số hạn chế, chưa
mạnh mẽ, chưa huy động được nhiều lực lượng tham gia. Nội dung tuyên
truyền chưa phong phú, đa dạng. Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức triển khai cuộc vận động chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan, ban, ngành, đoàn thể của cả hệ thống chính trị để phát huy sức mạnh
tổng hợp triển khai cuộc vận động. Việc triển khai cuộc vận động chưa
gắn chặt với công tác tư tưởng, tổ chức, kiểm tra, thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội ở ngành và địa phương.
1.3. Sự cần thiết phải đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
Nếu tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở tư tưởng và kim chỉ nam cho
hoạt động của Đảng ta trong việc hoạch định đường lối chiến lược, sách
lược đưa cuộc cách mạng của chúng ta đi tới thắng lợi thì đạo đức Hồ Chí
Minh lại là kim chỉ nam cho hành động của mỗi cán bộ đảng viên và nhân
dân ta trong công tác và đời sống hàng ngày.
Đất nước ta trong thời kỳ đổi mới nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp
mới xuất hiện nhưng bên cạnh đó thì tình trạng suy thoái về đạo đức, lối

sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và trong xã hội diễn ra rất tinh
vi, ngày càng tăng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cách mạng nước
ta. Đó là: Chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng; là nạn tham
nhũng; tệ quan liêu; lối sống thiếu trung thực, cơ hội; lý thuyết suông - nói
không đi đôi với làm; sự suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình,
quan hệ giữa cá nhân với xã hội; Đạo đức nghề nghiệp bị sa sút… Mà

19


trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi thắng lợi
hay sai lầm của đất nước đều không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng,
tách rời phẩm chất năng lực của người đảng viên. Chúng ta hiểu vì sao
suốt cuộc đời Bác Hồ kiên trì giáo dục đạo đức, để lên hàng đầu "tư cách
người cách mệnh", coi đạo đức là gốc của người cán bộ, nêu cao đạo đức
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị. Người còn chỉ
rõ phải thường xuyên chống tham ô, lãng phí, quan liêu, những căn bệnh
bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân và xác định đó là "giặc nội xâm" là đồng
minh của "ngoại xâm" dẫn đến đổ vỡ sự nghiệp cách mạng, làm mất lòng
tin của nhân dân. Với tính chất nghiêm trọng như vậy Đại hội Đảng lần X
đã coi đây là "một nguy cơ thách thức lớn liên quan đến sự sống còn của
Đảng, của chế độ". Bởi đây chính là lý do dẫn đến nguy cơ làm giảm sự
thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, tác động đến sự ổn
định và phát triển bền vững của xã hội. Ngoài ra sự suy thoái về đạo đức
và lối sống đang phá hoại hạnh phúc nhiều gia đình, làm suy giảm nguồn
nhân lực, gây hậu quả rất lớn về kinh tế do không phát huy được nguồn
lực con người để phát triển đất nước.
Hiện nay, trong khi đặt phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm
Đảng ta đã khẳng định vai trò quyết định của nhân tố con người, vai trò
nền tảng tinh thần và động lực phát triển của văn hóa, đạo đức. Giáo dục

đạo đức là một trong những biện pháp đảm bảo sự thống nhất trong Đảng,
sự đồng thuận trong xã hội, sự ổn định trong xã hội tạo điều kiện cho sự
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững của đất nước thực hiện miêu tả "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trong bất cứ một
giai đoạn cách mạng nào việc học tập, tu dưỡng đạo đức thường xuyên
cũng là cơ sở để hoàn thiện mỗi cá nhân. Vì đạo đức của mỗi con người
phải do mỗi người tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động thực
tiễn và tiếp thu sự giáo dục quản lý của tổ chức, tập thể, cộng đồng, gia
20


đình và xã hội. Mọi sự buông thả, thiếu tự giác, xa rời sự quản lý là con
đường dẫn tới hư hỏng, tự đánh mất bản thân mình. Đại hội IX của Đảng
đã khẳng định: "Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm
điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng cơ hội thực
dụng. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn
Đảng và toàn xã hội".
Ngày 7/11/2006 Bộ Chính trị khoá X đã ban hành chỉ thị 06-CT/TW
về tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh" trong toàn Đảng, hệ thống chính trị ban đầu từ 3/2/2006 đến
hết nhiệm kỳ khoá X. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã ban hành
hướng dẫn 11-HD/TTVH ngày 06/12/2006 hướng dẫn các địa phương,
ban, ngành triển khai cuộc vận động theo chỉ thị của Bộ Chính trị.
Hơn lúc nào hết Đảng ta, nhân dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn
đề đạo đức, tiếp tục xây dựng hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng
đắn, tiến bộ, phù hợp, tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng, trong nhân
dân. Đây cũng là nhiệm vụ của công tác tư tưởng đối với việc rèn luyện,
giáo dục đạo đức trong xã hội.


21


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CUỘC VẬN ĐỘNG
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Thực trạng.
2.1.1. Kết quả đạt được và những nguyên nhân của kết quả đó.
- Về nhận thức:
Học tập các chuyên đề, tìm hiểu tấm gương đạo đức của Bác, thi kể
chuyện…giúp cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiểu rõ hơn,
nhận thức sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Tuyệt đại đa số
cán bộ, đảng viên và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng cuộc vận động với
tinh thần phấn khởi và thái độ đồng tình, nhất trí cao. Dư luận trong Đảng
và xã hội cho rằng: Việc Trung ương phát động cuộc vận động này là
đúng và "trúng", đáp ứng tình cảm và lòng mong đợi của đông đảo cán bộ,
đảng viên và nhân dân, đa số rất kỳ vọng vào kết quả của cuộc vận động.
Tuy nhiên, vẫn còn một số người băn khoăn về kết quả thực tiễn của cuộc
vận động. Sau khi cuộc vận động được triển khai rộng khắp và thống nhất
trong cả nước, niềm tin vào thành công của cuộc vận động được nâng lên.
Qua nghiên cứu, học tập và chuyên đề về tư tưởng tấm gương Hồ Chí
Minh đa số cán bộ, đảng viên, công chức đã có sự chuyển biến bước đầu
về nhận thức tư tưởng, về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức. Đã nhận
thức rõ hơn về vị trí, tầm quan trọng của dân tộc đối với sự phát triển của
gia đình, xã hội và mỗi cá nhân; nhận thức sâu sắc hơn đạo đức là "gốc"
của người cách mạng, những nội dung tư tưởng đạo đức và tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Báo cáo sơ kết của các địa phương, cơ sở và phản

ánh của hệ thống dư luận xã hội ở các cấp cho biết: nhiều cán bộ, đảng
22


viên đã có ý thức giữ gìn, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức tốt hơn, nhất là ý
thức từ bỏ các thói hư, tật xấu; có chuyển biến nhất định và quan hệ với
nhân dân, trách nhiệm với tập thể, cộng đồng xã hội, giữ gìn đoàn kết, kỷ
luật… Đó là những kết quả bước đầu có ý nghĩa.
Có thể khẳng định, cuộc vận động đang đi vào đời sống, vào lòng
người, đã được xã hội đón nhận, trở thành một sinh hoạt chính trị, văn hóa
sâu rộng, bước đầu tạo được ấn tượng và hiệu quả. Đây là kết quả tích
cực, tạo tiền đề để đẩy mạnh cuộc vận động với những bước tiếp theo có
nhiều nội dung công việc khó khăn và phức tạp hơn.
- Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo:
Ở Trung ương, ban chỉ đạo Trung ương đã thành lập và kiện toàn
các cơ quan giúp việc và đi vào hoạt động có nề nếp. Ban chỉ đạo Trung
ương đã thảo luận, đánh giá những kết quả bước đầu của cuộc vận động;
xây dựng kế hoạch triển khai cuộc vận động từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại
hội X; Đẩy mạnh chỉ đạo tuyên truyền về cuộc vận động trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Về cơ bản, lãnh đạo các cấp, các ngành đã nhận
thức rõ mục đích, yêu cầu và ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc vận động,
có quyết tâm cao, quyết tâm lãnh đạo, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan
trọng gắn liền với lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Ban chỉ đạo các cấp đã ban hành các văn bản về quy chế làm việc,
hướng dẫn các cấp ủy và ban chỉ đạo cấp dưới triển khai thực hiện nội
dung các bước cuộc vận động, tạo sự thống nhất và tương đối đồng bộ
giữa mặt công tác và các hoạt động từ Trung ương đến cơ sở. Đây cũng là
kết quả, là tiền đề rất quan trọng về mặt tổ chức để tiến hành các nội dung,
các bước công việc tiếp theo của cuộc vận động. Từ đó để cuộc vận động
ngày càng đi vào chiều sâu, đạt chất lượng và hiệu quả thực tế.


23


Công tác chuẩn bị của các cấp về cơ bản đảm bảo kịp thời để triển
khai cuộc vận động. Đội ngũ báo cáo viên nhìn chung được lựa chọn chặt
chẽ, có tinh thần trách nhiệm, uy tín chính trị, đạo đức và kinh nghiệm
công tác; làm tốt các bước chuẩn bị và tiến hành báo cáo các chuyên đề,
đảm bảo nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả. Công tác hướng dẫn và làm
điểm hội thi "Kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" được quan
tâm. Nhiều ngành, địa phương đã xuất bản sách, phát hành các sản phẩm
văn hóa về Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với ngành, địa phương mình với
nội dung thiết thực, hình thức phong phú, đa dạng, số lượng phát hành
lớn.
2.1.2. Nhược điểm và hạn chế.
Trước khi triển khai cuộc vận động, việc tổ chức quán triệt mục
đích, yêu cầu, ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc vận động chưa được quan
tâm đúng mức, nhất là ở các cơ quan Trung ương. Ban chỉ đạo Trung
ương mới biên soạn tài liệu học tập, tổ chức tập huấn báo cáo viên mà
chưa tổ chức quán triệt kỹ chỉ thị 06-CT/TW của Bộ Chính trị và các hướng
dẫn triển khai. Vì vậy, một số ngành, địa phương còn lúng túng trong việc
triển khai thực hiện. Một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân chưa thật
tin tưởng vào kết quả cuộc vận động. Cá biệt, có biểu hiện nhận thức về
cuộc vận động chưa đúng tầm, cho rằng đây chỉ là đợt học tập nhằm tiếp tục
thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW ngày 27/03/2003 của Ban Bí thư Trung ương
khoá IX hoặc cho rằng đợt học này chỉ giành cho những ai "có vấn đề" về
đạo đức hay cán bộ lãnh đạo có chức, có quyền.
Ở một số cơ quan việc tổ chức học tập có biểu hiện đơn giản: Tổ
chức báo cáo chuyên đề quá ngắn gọn, không đúng quy định [một buổi]
hoặc chỉ mời chuyên gia báo cáo về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chủ

tịch chưa nghiên cứu một cách sâu sắc về tư tưởng và tấm gương đạo đức

24


của Người. Nhiều cán bộ chủ chốt chưa gương mẫu, tích cực học tập.
Nhiều doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp tổ chức triển khai
học tập còn chậm, còn thụ động, công tác tổ chức chưa chặt chẽ, Ban chỉ
đạo hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã
qua học tập, nghiên cứu các chuyên đề về tư tưởng và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh còn cho rằng: nội dung học tập lần này không có gì mới;
vấn đề là làm theo Người như thế nào?
Công tác tuyên truyền chưa ngang tầm với cuộc vận động. Lĩnh vực
văn học, nghệ thuật chưa được huy động mạnh vào việc tuyên truyền về
cuộc vận động. Nội dung tuyên truyền của các báo, đài còn trùng lặp;
thiên về sưu tầm, giới thiệu nội dung tư tưởng và những mẩu chuyện về
đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rất ít tuyên truyền về những bài học
kinh nghiệm, về tấm gương người thực, việc thực đã học, đã thấm nhuần
và làm theo tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như thế
nào?
Việc chuẩn bị nội dung học tập ở cơ sở vẫn chưa có sự đổi mới phù
hợp, nhiều nơi vẫn làm theo cách cũ giống như học tập nghị quyết. Nhiều
địa phương chưa chuẩn bị thêm tài liệu sát với tình hình và đặc điểm địa
phương để đưa vào nội dung học tập. Đội ngũ báo cáo viên còn thiếu và
yếu, một bộ phận chưa ngang tầm. Do đó hạn chế đến chất lượng và hiệu
quả học tập nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai cuộc vận động tuy
có đổi mới so với những cuộc vận động trước đây nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục. Tính chủ động, sáng tạo trong lãnh
đạo và chỉ đạo còn hạn chế. Ở Trung ương, việc đầu tư cho cuộc vận động

lúc đầu chưa ngang tầm; chỉ đạo còn chậm, thiếu sâu sát, quyết liệt, nhiều
văn bản hướng dẫn chưa sáng tỏ, chưa sát cơ sở. Chưa thật sự đổi mới từ

25


Bài tham luận học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”

Thứ tư - 27/10/2021 09:53
LỜI NÓI ĐẦU
Phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinhhạnh phúc là nội dung quan trọng trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc, người thầy vĩ đại của cách mạngViệt Nam. Người “là biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩaanh hùng cách mạng Việt Nam. Người là kết tinh rạng ngời của đạo đức, trí tuệ, khíphách, lương tri của dân tộc và thời đại”. Trọn cuộc đời, Người hiến dâng cho sựnghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Di sản tư tưởng Người để lại có ý nghĩalịch sử và thời đại sâu sắc, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công rất tốt đẹp,góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vàosự nghiệp đổi mới đất nước; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy tinhthần yêu nước, ý chí và khát vọng phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dânchủ, công bằng, văn minh.Đại hội đã xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030 vàtầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045, định hướng và lãnh đạo, chỉ đạo toànbộ các hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội. Trong quan điểm chỉ đạo thựchiện đường lối đổi mới giai đoạn tới, Nghị quyết Đại hội đã khẳng định: “Kiênđịnh và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ ChíMinh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lốiđổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảovệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời chỉ rõ: “Động lựcvà nguồn động lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinhthần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khátvọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.Thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếptục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Vềđẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"; tiếptục thực hiện Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 25/7/2016 của Ban Bí thư Trung ươngĐảng về thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩymạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và đẩymạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ươngĐảng đã biên soạn, ban hành tài liệu chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh toàn khóa: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triểnđất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
Chuyên đề cung cấp những nội dung cơ bản, các giải pháp chủ yếu trong họctập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong năm 2021 vànhững năm tiếp theo, nhằm phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triểnđất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.Chuyên đề được dùng trong sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị của hệthống chính trị và được tuyên truyền rộng rãi trong toàn thể nhân dân.Nội dung chuyên đề, ngoài Lời mở đầu và Kết luận, gồm 2 phần:
- Phần thứ nhất: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực,tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
- Phần thứ hai: Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cáchHồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,hạnh phúc trong giai đoạn hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu tài liệu tới các đồng chí và quý bạn đọc!



Phần thứ nhất

TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

1. Sự hình thành tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tựlực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Vấn đề độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là xuất phátđiểm, là nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọngphát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, được nuôi dưỡng bởi những giá trị vănhoá truyền thống của dân tộc, có sự tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Sinh thời trong cảnh nước nhà bị nô dịch, lầm than, người thanh niên trẻNguyễn Tất Thành đã sớm thức tỉnh, đau đáu nỗi niềm cứu nước, cứu dân. Ngườichọn hướng đi sang các nước tư bản phương Tây tìm hiểu sự thật đằng sau khẩuhiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, xem người ta làm thế nào rồi trở về giúp đồngbào mình. Ngày 5/6/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Người bắt đầu chuyến hành trìnhtrên con tàu Amiral Latouche Tresville, mang theo khát vọng cháy bỏng: “Tự docho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy làtất cả những điều tôi hiểu”
4. Điều này sớm đã thể hiện tư tưởng, ý chí tự lực, tựcường và một khát vọng lớn, mang tầm nhìn thời đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
- Sinh sống và làm việc tại nhiều nước tư bản phương Tây đã giúp NguyễnTất Thành nhận thức và vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản: Ở đâu đâu đế quốctư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính;ở đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè, anh em,đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, đứng lên đấu tranh giải phóng.
- Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc
đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luậncương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương của Lêninđã giúp Người giải đáp những vấn đề cơ bản về con đường giải phóng dân tộc màNgười tìm kiếm bấy lâu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộckhông có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tháng 12/1920, Người đã gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp,đánh dấu sự chuyển biến mang tính bước ngoặt trong tư tưởng của Người từ chủnghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản.

- Sau khi xác định con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, Người tích cựctruyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về trong nước. Người đã mang đến một luồng giómới về đấu tranh cách mạng đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân các dân tộcthuộc địa, phụ thuộc, khơi dậy trong họ tinh thần đoàn kết đấu tranh chống chủnghĩa thực dân, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh theo khuynh hướng cách mạng vô sảnở nước ta trong những năm 30 của thế kỷ XX, đưa tới sự ra đời của chính đảng vôsản Việt Nam, mở ra thời đại rực rỡ của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo củaĐảng, với những dấu ấn lịch sử và tầm vóc thời đại.
Ý chí tự lực, tự cường và khát vọng về quyền sống chân chính của dân tộc đãbồi đắp tư tưởng, sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và lan tỏa trong mọigiai tầng xã hội Việt Nam. Nói cách khác, chính chủ nghĩa yêu nước, khát vọnggiải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “đàng hoàng”, “to đẹp” đã đưa Người
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đặt nền móng cho sự phát triển tư tưởng mácxít ởViệt Nam, tạo ra những điều kiện căn bản, tiên quyết đưa đến những thành côngcủa cách mạng nước nhà.

2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh về ý chí tự lực, tự cường
2.1. Ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, cóquan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế
- Hầu hết các đảng cộng sản ở Châu Âu đều có quan điểm rằng, cách mạng ởcác thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng ở các nước tư bản [chính quốc], cáchmạng ở các nước thuộc địa không thể thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốcchưa thắng lợi. Nguyễn Ái Quốc không tán thành quan điểm đó. Người cho rằng,
với ý chí, khát vọng đấu tranh mãnh liệt, bất khuất vì độc lập, tự do, cách mạng ởcác nước thuộc địa [trong đó có Việt Nam] hoàn toàn có thể chủ động giành thắnglợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không.
- Người cũng chỉ rõ mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa vàcách mạng ở chính quốc. Người ví mối quan hệ đó như hai cánh của một conchim. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, vạch trần bản chất của chủnghĩa tư bản thực dân giống con đỉa có hai vòi, một vòi bám vào giai cấp vô sản ởcác nước tư bản, vòi kia hút máu các dân tộc thuộc địa, Người khẳng định muốntiêu diệt nó, phải cắt cả hai cái vòi, muốn vậy phải có sự phối hợp chặt chẽ giữacách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc.

- Hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc luôn chú trọng đưa rađề nghị Quốc tế Cộng sản đặt đúng vị trí, vai trò của cách mạng thuộc địa trongphong trào cách mạng vô sản thế giới, tích cực giúp đỡ cách mạng thuộc địa về lýluận và phương pháp đấu tranh, đào tạo cán bộ cho các dân tộc thuộc địa, cổ vũ và
hướng dẫn phong trào cách mạng thuộc địa phát triển đúng hướng, có khả năng tựgiải phóng mình.

- Thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của dân tộc theo con đường chủ nghĩa MácLênin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng,thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: “Đối vớitôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ,đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”.
2.2. Ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêunước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng

- Ý chí tự lực, tự cường trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã giúpNgười thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính, bao gồm chủ nghĩa yêunước và tinh thần dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn của các dân tộc bị áp bức trênthế giới đứng lên chống đế quốc, thực dân. Từ thực tế xã hội Việt Nam cuối thế kỷXIX đầu thế kỷ XX, Người viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước.Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những ngườiculi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạpdịch và thuế muối... nó đã thúc giục thanh niên bãi khoá, làm cho những nhà cáchmạng trốn sang Nhật Bản, làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa”.
- Theo Người, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dântộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh[1927], Người viết: “chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnhdậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”. Nêu cao tinh thầnđộc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng “phảicủng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dânPháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn mạnh vấn đề có tínhnguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.
- Ở một nước thuộc địa như Việt Nam, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấptrở thành vấn đề sống còn, ngọn cờ giải phóng dân tộc phải giương cao hơn hếtthảy. Trong cuộc đấu tranh đó, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc được coilà nền tảng căn bản, có thể huy động, tập hợp được hết thảy các giai tầng xã hộiđoàn kết trên một mặt trận, đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như bảo vệ vữngchắc nền độc lập đó. “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trungnông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”.
- Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 [11/1939], Đảng ta khẳng định chủtrương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, liên hiệp tất cảcác dân tộc, giai cấp, đảng phái, giành độc lập dân tộc, xây dựng hình thức Nhànước cộng hòa, dân chủ “Chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng”. Nghị
quyết Trung ương nêu rõ: “Công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên, vì quyền lợisinh tồn của dân tộc mà sẵn sàng bắt tay với tiểu tư sản và những tầng lớp tư sảnbổn xứ, trung tiểu địa chủ”.

- Ngay sau khi trở về nước, Lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trungương 8 [1941]. Ngoài những chủ trương lớn về giải phóng dân tộc, nhiệm vụ cáchmạng chủ yếu, Hội nghị còn chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợpđoàn kết rộng rãi toàn dân tộc với các tổ chức, đoàn thể cứu quốc, thống nhất ýchí, hành động trong toàn Đảng, toàn nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủCộng hòa ra đời là minh chứng sống động nhất về sức mạnh dân tộc, mà chủ nghĩayêu nước, tinh thần dân tộc, kết hợp chủ nghĩa quốc tế trong sáng là nhân tố quytụ, thúc đẩy, hòa quyện, kết tinh mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài, sức mạnhcủa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam, kiên cường đấu tranh dưới sựlãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.

2.3. Ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiệncủa cách mạng
- Điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách mệnh, “để trong thì vận độngvà tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọinơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vữngthuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng aicũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũngnhư người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
- Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị thành lậpĐảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Người soạnthảo. Cương lĩnh ngắn gọn, rõ ràng và thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, phù hợpvới hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chốngchủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêuchiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyềncách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sự ra đời của Đảngđánh dấu bước ngoặt đặc biệt quan trọng trong tiến trình cách mạng dân tộc, trởthành nhân tố tiên quyết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dẫndắt, tập hợp và lãnh đạo nhân dân từng bước đấu tranh, chuẩn bị các điều kiện mọimặt, đưa tới sự thành công của cách mạng.
- Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Hồ Chí Minhtrở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách mạng nhưhoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giaicấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc.
- Người chỉ ra các nhiệm vụ quan trọng, cần kíp về việc chuẩn bị các điềukiện đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng, như: xây dựng lực lượng cách mạng[bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang]; căn cứ địa cách mạng; tậpdượt cho quần chúng đấu tranh, xác định phương pháp đấu tranh khởi nghĩa từngphần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền; chuẩn bị bộ máy tổng khởi nghĩagiành chính quyền khi thời cơ chín muồi và dự kiến các công việc sau khi giànhđược chính quyền.

- Nhờ có sự chủ động, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, chỉ trong vòng 15 ngàyCách mạng tháng Tám [1945] diễn ra mau lẹ, ít đổ máu, giành thắng lợi hoàn toàntrên cả nước, đập tan chế độ thực dân thống trị nước ta hơn 80 nghìn năm, lật đổ chếđộ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót nghìn năm, khai sinh nền dân chủ cộng hòa, mởra một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam, kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liềnvới giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỉ nguyên độc lập dân tộcgắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi này thể hiện việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin ở mộtnước thuộc địa, khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, tinh thần, ýchí tự lực, tự cường của toàn dân tộc theo tư tưởng của Bác. Tư tưởng tự lực, tựcường, chủ động chuẩn bị chu đáo các điều kiện cách mạng tiếp tục được pháttriển và khẳng định trong các giai đoạn cách mạng sau, đưa tới thắng lợi vĩ đại củacuộc kháng chiến chống thực dân Pháp [1945- 1954], kháng chiến chống đế quốcMỹ [1954-1975], trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước [1975- nay], đặcbiệt trong 35 năm đổi mới [1986- nay].
2.4. Ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnhcủa Nhân dân
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân nhưng không phải ở đâuvà bất cứ lúc nào quần chúng nhân dân cũng làm được cách mạng. Muốn làmđược cách mạng, quần chúng nhân dân phải được vận động, rèn luyện và tổ chứcnhằm huy động, tập hợp, phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của mọi lực lượngquần chúng trên cùng một mặt trận, biến thành sức mạnh của quần chúng thànhsức mạnh cách mạng.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Ngườinói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnhbằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”16. Người khẳng định, dân khí mạnh thìbinh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gìkhó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”.
- Trong giai đoạn vận động giải phóng dân tộc, lãnh tụ Hồ Chí Minh thườngnhấn mạnh phải động viên lực lượng của toàn dân, có dân là có tất cả. Khi thời cơcách mạng chín muồi [8/1945], Người đã gửi Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa trongcả nước. Người nêu rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân
tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng chota... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồngbào hãy dũng cảm tiến lên!”. Sức mạnh toàn dân được huy động và hiện diện tolớn, tạo nên thành công vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám.

- Thời kỳ kháng chiến chống Pháp [1946-1954], trong hoàn cảnh thực dânPháp rắp tâm xâm lược nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toànquốc kháng chiến, thôi thúc nhân dân ta đứng lên đứng lên đấu tranh, quy tụ sứcmạnh toàn dân trong thế trận chiến tranh nhân dân, chống thực dân Pháp nhằm giữvững nền độc lập dân tộc: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đànông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Aicó súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [1954-1975], đương đầuvới kẻ thù có sức mạnh số một thế giới về kinh tế và quân sự, Chủ tịch Hồ ChíMinh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng caotinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miềnBắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nướcta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”.

- Vai trò và sức mạnh của nhân dân luôn được Đảng ta trân trọng, phát huycao độ trong công cuộc trường kỳ kháng chiến, cũng như trong trong thời kỳ xâydựng và bảo vệ đất nước kể từ khi hòa bình lập lại đến nay, tạo nên những thànhtựu vô cùng quan trọng trên các phương diện đời sống xã hội, đem lại những giátrị kinh tế– xã hội, những thay đổi lớn lao về diện mạo đất nước trong tiến trìnhthực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”như Bác Hồ hằng mong ước.
2.5. Ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc,“nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độclập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải đương đầu vớinhững kẻ thù có sức mạnh kinh tế - quân sự vào hàng cường quốc thế giới, chốnglại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
- Ngay sau khi nền độc lập ra đời, đất nước ta đã phải chuẩn bị cho một cuộckháng chiến không thể tránh khỏi. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủtịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng.Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyếttâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất địnhkhông chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
.

Nhờ phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, quyết tâm vừa khángchiến vừa kiến quốc, chúng ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, làmnên chiến thắng Điện Biên phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, chiếnthắng của ý chí, khát vọng độc lập và khí phách Việt Nam.
- Lịch sử tiếp tục chứng kiến những thách thức cam go về ý chí và khát vọngđộc lập dân tộc qua cuộc đối đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ.Trước một cuộc chiến tranh khốc liệt, trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu caoquyết tâm trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Người nói: “Phải giành thắnglợi quyết định trong một thời gian, ta không nói mấy năm, mấy tháng, mấy ngày,nhưng trong một thời gian càng ngắn càng tốt”.
- Khích lệ, thôi thúc ý chí đấu tranh đến ngày đất nước toàn thắng, thống nhấttrong mỗi người dân, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúcnày là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miềnNam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâmlược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”.
- Tin tưởng vào sự tất thắng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước, trong bản Di chúc, Người khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước củanhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất địnhthắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”
.

- Chiến thắng lịch sử 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nướcmột lần nữa khẳng định ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ và giữ vững nềnđộc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam. Đồng thời, tiếptục được Đảng ta phát huy trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sau giải phóng đến nay.

3. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
3.1. Xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí,bồi dưỡng nhân tài

- Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với cương vị là người đứng đầuNhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xâydựng đất nước giàu mạnh, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tưtưởng của Người đã được nhấn mạnh tại Đại hội II của Đảng [1951]: Xây dựngmột nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường. Ngườinhiều lần nhắc nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thìđộc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
- Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945, Ngườiđã nêu lên những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền đó là diệt giặc đói, giặc dốtvà giặc ngoại xâm. Nói cách khác, tập trung giải quyết hai vấn đề trọng yếu: phụchồi và phát triển nội lực đất nước; đối ngoại linh hoạt tránh nguy cơ ngoại xâm,kéo dài thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
- Trong các nhiệm vụ và giải pháp cấp bách đó, Người đặc biệt chú trọngviệc nâng cao dân trí, phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh.Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Namđộc lập [05/9/1945], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ, khích lệ: “Non sông ViệtNam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quangđể sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phầnlớn ở công học tập của các em”.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, trước đây thực dân Pháp cai trị đã thực hiệnchính sách ngu dân để dễ lừa dối, bóc lột dân ta, có tới 95% đồng bào ta không biếtchữ. “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phảithực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”. Nạn thất học, kém hiểu biết làmột cản trở lớn cho sự phát triển của đất nước và dân tộc. Người kêu gọi: “...Mọingười Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiếnthức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phảibiết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
- Bên cạnh việc nâng cao dân trí, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nhiệm vụquan trọng trong kiến thiết đất nước là bồi dưỡng nhân tài. “Kiến thiết cần có nhântài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéophân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”.
- Xuyên suốt hai cuộc trường chinh kháng chiến chống lại các thế lực đế quốcthực dân Pháp và Mỹ, đường lối kiến thiết đất nước, từng bước hiện thực hóa vọngxây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh luôn được Đảng và Bác Hồlãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách cụ thể, phù hợp, sáng tạo và quyết liệt.
- Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người bày tỏ điều mong muốn cuối cùng,cũng là khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựngmột nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và gópphần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

- Những tư tưởng, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một Việt Nam hùngcường tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân tộc từng bước hiện thực hóa trong côngcuộc xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới pháttriển đất nước trong 35 năm qua và trong những chặng đường tiếp theo. Kết quả,thành tựu đem lại “rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật”, nhưVăn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có đượccơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
3.2. Thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảngcầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân
- Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã mang khát vọng lớnlao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khẳng định: “Tôichỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàntoàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”.

- Khi nước nhà độc lập, khát vọng ấm no, hạnh phúc của nhân dân trở thànhđộng lực và mục tiêu hành động của toàn Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ ChíMinh. Trong tư tưởng của Người, hạnh phúc của người dân đơn giản là quyền sống,từ đó phát triển một dân tộc, một quốc gia hạnh phúc. Đó là một xã hội do nhân dân
lao động làm chủ, bình đẳng, không có chế độ người bóc lột người, “một xã hộihoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứngđáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốctự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”.
- Trong quá trình xây dựng đất nước, Người rất coi trọng các chính sách kinhtế nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho con người.Người khẳng định Ðảng ta, Nhà nước ta từ nhân dân mà ra, vừa là người lãnh đạovừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác lợi ích của nhân dân.
- Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn chocách mạng, “chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnhphúc của quốc dân”. Trong Di chúc, Người dặn dò: “Đảng, Chính phủ và đồngbào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mởnhững lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánhsinh”. Mong muốn của Người là ai ai cũng được góp công sức vào sự nghiệp cáchmạng của dân tộc và được hưởng thành quả do cách mạng mang lại.

Ý chí, khát vọng độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân, hùng cườngcho dân tộc và tấm gương mẫu mực suốt đời phụng sự đất nước, phục vụ Nhândân của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là động lực, tư tưởng soi đường cho toànĐảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước,
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
3.3. Xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạchvới sự đồng lòng của Chính phủ và người dân

- Hiện thực khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ ChíMinh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân, xây dựngđời sống kinh tế, văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo đức tốtđẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch thực hiện
với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

- Đất nước giành được độc lập, vấn đề kiến thiết, phát triển kinh tế - xã hội trởnên cấp thiết. Ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78 về việcthiết lập “Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết” của Chính phủ. Phát biểu trongphiên họp đầu tiên của Ủy ban ngày 10/01/1946, Hồ Chí Minh mong muốn mọingười “đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội”, “Làm cho dân có ăn.Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.
- Trong thư gửi các giới công thương Việt Nam, Người viết: “Trong lúc cácgiới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập củanước nhà, thì giới Công-Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế vàtài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúpgiới Công-Thương trong công cuộc kiến thiết này”. Người nhấn mạnh, nền kinhtế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp,thương nghiệp thịnh vượng. Các nhà công nghiệp, thương nghiệp hãy cùng đemvốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân.

- Trong lĩnh vực nông nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nước muốngiàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp”, “Chúng ta phải quý mỗi tấc đất nhưmột tấc vàng”. Người khuyến khích: “Trong công cuộc xây dựng nước nhà,Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn.Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nôngdân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã”.
- Theo Người, “muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển côngnghiệp nhưng đồng thời cũng phải phát triển nông nghiệp, vì hai ngành đó khăngkhít với nhau... Nếu ngành công nghiệp phát triển mà ngành nông nghiệp khôngphát triển thì khập khễnh như người đi một chân”. Xuất phát từ điều kiện nướcta, sản xuất nông nghiệp có một vị trí hết sức quan trọng, Người chủ trương phảicải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tếkhác, để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà.

- “Nhân dân ta, đặc biệt là công nhân và nông dân ta, phải hăng hái thi đua yêunước, thực hiện khẩu hiệu: làm nhiều, nhanh, tốt, rẻ”42. “Tự lực cánh sinh, tăng giasản xuất, thực hành tiết kiệm”. Có sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn xãhội, như vậy mới phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần củanhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi.
3.4. Phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mởcửa, thu hút đầu tư nước ngoài

- Vấn đề nội lực dân tộc là một điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, ngay khi thời cơ đến, dưới sựlãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh nội lực của hơn 20 triệungười dân Việt Nam đã được phát huy, làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Cáchmạng Tháng Tám, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Sau ngày nền độc lập ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tự lúcgiành quyền độc lập đến nay, xứ Việt Nam ta vẫn hết sức cố gắng để một mặt yênnội trị, một mặt gây thực lực chống xâm lăng và tranh thủ ngoại giao được thắnglợi. Sức cố gắng ấy đã đem lại cho chúng ta những kết quả khả quan”. Điều nàyđã nói lên tinh thần, quan điểm, đường lối của Đảng và Bác Hồ trong xây dựng vàbảo vệ đất nước là phát huy tối đa các nguồn lực bên trong, tranh thủ nguồn lựcbên ngoài, có chính sách mở cửa, hỗ trợ phát triển nền kinh tế nhằm tạo nội lựcdân tộc vững mạnh.
- Người tuyên bố: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thichính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”, “Nước Việt Nam dành sự tiếpnhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cảcác ngành kỹ nghệ của mình”.
- Quan điểm của Người trong việc mở cửa, hợp tác quốc tế không chỉ nhằmmục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà thông qua đó thu hút ngoạilực, thu hút đầu tư, tạo ra những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, pháttriển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm
vốn cho ta, do vậy phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. Ta phảikhéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng, phát triển khả năng của ta, tức là có thêmđiều kiện để tự lực cánh sinh.

- Ngay từ cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đãnêu rõ vấn đề này trong đường lối kháng chiến, đường lối kiến thiết đất nước.Người chỉ rõ phải phát triển toàn diện kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp, thươngnghiệp tới phát triển dịch vụ, mở rộng giao lưu kinh tế với các nước, trước hết là cácnước anh em, các nước xã hội chủ nghĩa. Suốt cuộc kháng chiến, mặc dù tình hìnhthế giới diễn biến phức tạp, song Người vẫn cố gắng mở rộng quan hệ hợp tác quốctế, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩaxã hội ở miền Bắc. “Cuộc kháng chiến lâu dài của chúng ta được thắng lợi là do nơichúng ta động viên kinh tế được thành công, vì chúng ta có biết động viên kinh tếmột cách khôn khéo, thực lực của chúng ta mới được đầy đủ và bền bỉ”.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ý chí tự lực, tự cường đượckhơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng và nhân dân hai miền Nam – Bắc nhằm thựchiện thắng lợi nhiệm vụ thống nhất đất nước, bảo toàn nền độc độc lập, đưa cả nướctiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thời gian này, chúng ta tiếp tục nhận được rấtnhiều sự ủng hộ, giúp đỡ từ các nước anh em và bè bạn quốc tế. Điều này một lầnnữa khẳng định quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng và Bác về coi trọng nộilực, khéo léo tranh thủ, tận dụng ngoại lực, xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.

3.5. Luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lýluận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáođiều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng và Chủ tịchHồ Chí Minh đặt ra trên cơ sở nhận thức khoa học, đúng đắn lý luận chủ nghĩaMác-Lênin, phù hợp với thực tiễn đất nước. Từ thực tiễn, hoàn cảnh nước ta làmột nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội “không thể làm mau được mà phải làm dần dần”,“làm sao cho dân giàu nước mạnh”
.

- Độc lập, sáng tạo trong tư duy, quan điểm, chủ trương và hành động làphong cách nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, xây dựng, phát triểnđất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm,bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô cóphong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác… ta có thể đi con đường khác đểtiến lên chủ nghĩa xã hội”.
- Chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinhnghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩaMác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lêninmà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn nhữngđặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luậtphát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm,bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.
Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị chỉ đạo thực tiễn vànghiên cứu lý luận về sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đườngcủa chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sở, nền tảng tư tưởng đặc biệt quan trọng đểĐảng đổi mới tư duy lý luận, nắm bắt thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quyluật khách quan, hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng[12/1986] và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong các giai đoạn cách mạng để ViệtNam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Phần thứ hai

ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC,PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG VÀKHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚCTRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minhvề ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Từ thuở bình minh, sơ khai trong lịch sử dân tộc, các thế hệ ông cha ta sớmđã hình thành ý chí, khát vọng phát triển quốc gia, dân tộc. Trải qua quá trình lịchsử, ý chí, khát vọng độc lập và hùng cường dân tộc đã được nuôi dưỡng, hun đúctrở thành giá trị truyền thống, lẽ sống và sức mạnh Việt Nam, là cơ sở để khơi dậy,phát huy, nhân lên sức mạnh tổng thể, sự nỗ lực của cả dân tộc trong tiến trình xâydựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ thời các vua Hùng dựng nước, đến Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa “đềnnợ nước, trả thù nhà”, ước vọng của Triệu Thị Trinh “đánh đuổi quân Ngô giànhlại giang sơn”... Hay qua lời tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt,“Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, nhữngchiến thắng vang dội 20 vạn quân Thanh dưới thời đại Quang Trung...
- Kế thừa truyền thống lịch sử - văn hóa của dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, ýchí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc ở HồChí Minh luôn bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn về con người, hạnh phúc của ngườidân, của quốc gia dân tộc, ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.
- Người quan niệm chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất mang lại hạnh phúccho mọi người. Hạnh phúc ấy do chính con người tạo dựng với sự lãnh đạo, địnhhướng của đảng cộng sản, đảng cách mạng chân chính. Hạnh phúc ấy bắt đầu từnhững mục tiêu căn bản nhất, mọi người đều thoát cảnh đói nghèo, được ăn, ở, họchành, có đời sống văn hóa vật chất, tinh thần tốt đẹp, lành mạnh. Từ hạnh phúccăn bản đó mà tạo ra từng gia đình hạnh phúc, nhân rộng thành cộng đồng hạnhphúc, đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng dân tộc đãđạt nhiều kỳ tích chói lọi, làm nên Cách mạng tháng Tám, khai sinh nền độc lập,mở ra thời đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, khẳngđịnh sự lựa chọn con đường cách mạng của Đảng và dân tộc ta là đúng đắn, phù
hợp quy luật khách quan, thực tiễn đất nước và xu hướng phát triển của thời đại.
- Hiện nay, công cuộc đổi mới đã và đang mang lại những thay đổi lớn lao,mà một trong những nguyên nhân căn bản là do chúng ta biết quy tụ, khơi dậy,phát huy ý chí tự cường và khát vọng phát triển của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạocủa Đảng, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, tiếp tục phục vụ đắc lực sự
nghiệp cách mạng dân tộc trong giai đoạn mới.

- Bài học kinh nghiệm quý giá của công cuộc đổi mới chính là dựa vào sứcdân, phát huy tinh thần và ý chí khát vọng của nhân dân trong xây dựng phát triểnkinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường hòa bình. Thành tựu của công cuộc đổi mớitrên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội đã thể hiện rõ nét hiệu quả của việc phát huy
ý chí, khát vọng phát triển đất nước của toàn nhân dân ta, dân tộc ta.

Điều này đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước đã đạt đượcnhững thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so vớinhững năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sốngnhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa baogiờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
- Có thể nói, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang, tiếp tụclà điểm tựa quan trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối chiến lượcphát triển đất nước trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiếp tục dẫn dắt dân tộc tiếnbước trên con đường phát triển và tiến bộ xã hội.

2. Bối cảnh thời đại và yêu cầu đặt ra phải phát huy ý chí tự lực, tựcường, khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc
- Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ, tình hình thế giới “tiếp tục có nhiều thay đổirất nhanh, phức tạp, khó lường”. Đáng chú ý là vấn đề toàn cầu hóa và hội nhậpquốc tế tiếp tục tiến triển nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩadân tộc cực đoan, vấn đề cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh
thương mại diễn ra gay gắt…

- Trong bối cảnh thế giới phát triển phụ thuộc lẫn nhau, lợi ích quốc gia, dântộc là nhân tố quyết định để mỗi quốc gia dân tộc tham gia vào các mối quan hệquốc tế, hội nhập quốc tế thành công. Ngoài tiềm lực kinh tế, ý chí tự lực, tự cường,khát vọng phát triển của toàn dân tộc là chỗ dựa và điều kiện căn bản, cốt lõi để mở
rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế.

- Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang có tác động mạnh mẽ đến ViệtNam càng đòi hỏi Việt Nam phải luôn giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, khát vọngphát triển để bảo vệ vững chắc môi trường hòa bình, tận dụng cơ hội và hóa giảinhững thách thức đối với độc lập, hòa bình và phát triển của dân tộc.
- Thực tiễn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một cáchsinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Những thành tựu của côngcuộc đổi mới là nền tảng quan trọng giúp chúng ta củng cố niềm tin, sự quyết tâm,nỗ lực, tiếp tục thúc đẩy con đường đi lên của dân tộc. Hơn lúc nào hết, cần pháthuy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí, khát vọng phát triểncủa toàn dân tộc làm động lực cho sự phát triển trong giai đoạn phát triển mới.
- Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổimới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chítự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đấtnước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổnghợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡngsức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạođộng lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.

- Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ, giải pháp tăng cường côngtác xây dựng Đảng, khẳng định: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triểnsáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn ViệtNam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, côngbằng, văn minh”. “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơnnữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chứcvà cán bộ”.
- Văn kiện Đại hội cũng nhấn mạnh: Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghịquyết Trung ương 4 khoá XI, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về xây dựngĐảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HồChí Minh bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùisuy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tựchuyển hoá" trong nội bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trungương đến chi bộ; cấp uỷ cấp trên chủ động gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cánhân ở những nơi có vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tựchuyển hoá"; coi trọng kiểm tra việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm.
- Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cườngdân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấpủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghịquyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

3. Một số giải pháp đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triểnđất nước phồn vinh, hạnh phúc

Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minhtrong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập trung làm tốt banội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên. Nghiêncứu, thực hiện hiệu quả các giải pháp sau:
[1] Cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên
- Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa tolớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùngvới chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động củaĐảng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò,sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, giảipháp của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trongsạch, vững mạnh, để tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trở thành động lực,nguồn sức mạnh to lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy nội lực,vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII củaĐảng và mọi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

[2] Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng,đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thựchiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị
- Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cáchHồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị vàcông tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và cácvấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn.

- Thực hiện đồng bộ giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiếnlược, lâu dài, "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. "Xây" là tổ chức tốt cácphong trào thi đua yêu nước; động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiệnthắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng của các địaphương, cơ quan, đơn vị đã đề ra.
"Chống" là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chínhtrị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ;phê phán, xử lý nghiêm những việc làm sai trái, thiếu trách nhiệm, quan liêu, háchdịch, cửa quyền; kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cựcvới tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không ngừng nghỉ, không bịtác động bởi bất cứ tổ chức, cá nhân có hành vi không lành mạnh nào. Nâng caotính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực; khuyến khích, cổvũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của nhândân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.
[3] Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia cácphong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội
- Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước củacác cấp, các ngành, nhằm lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng pháttriển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đạiđoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổnphận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân,“trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm vớidân”, thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểmtra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội.
- Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai với các cường quốc” như mongước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy vai trò của báo chí và hệ thống thông tinđại chúng, đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông nhằm đạt
hiệu quả cao nhất trong công tác tuyên truyền.

[4] Nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng pháttriển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu
- Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viênBan Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo phương châm cán bộ cóchức vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên
phong, gương mẫu "trên trước, dưới sau", "đảng viên đi trước, làng nước theo sau".
- Lãnh đạo chủ chốt các cấp phải thể hiện tư tưởng vững vàng, quan điểmđúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; cóphong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoànkết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể; luôn giữ vững nguyên tắc tậptrung dân chủ, khách quan, toàn diện, công tâm, công khai, minh bạch, chính xác,chống cục bộ địa phương, bè phái trong công tác cán bộ. Nghiêm túc tự phê bìnhvà phê bình, thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh.
- Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ýchí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Không ngừng họctập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, tự giác nêu gương cần,kiệm, liêm, chính, lao động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấmgương sáng, toàn Đảng ta sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt vớinhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nướcphồn vinh, hạnh phúc trong Đảng và xã hội.

[5] Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phùhợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rènluyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viênthấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, nêu cao bản lĩnh chính trị, đấu tranh cóhiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ,bè phái, lợi ích nhóm, mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về chính trị tư tưởng, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thườngxuyên “tự soi”, “tự sửa”.
[6] Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vậndụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầucủa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng khoahọc, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng.Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trịvăn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình ViệtNam trong thời kỳ mới. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnhđạo, quản lý. Khuyến khích sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật,báo chí về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
[7] Nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác cácquan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, chủ động thông tin kịp thời, chínhxác, khách quan, đúng định hướng chính trị để phòng, chống “diễn biến hòa bình”,loại thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội, để cán bộ, đảng viên và nhândân nhận thức đúng đắn, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,làm cho tư tưởng tiến bộ thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốnnắn những biểu hiện lệch lạc, bồi đắp thế giới quan, phương pháp luận và niềm tinkhoa học trong mỗi cán bộ, đảng viên và người dân, củng cố sự đoàn kết, thốngnhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.

[8] Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện việc thực hiện Chỉthị 05 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 [khoá XI, XII] về xây dựng,chỉnh đốn Đảng, nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, phát hiện từ sớm, kịp thời ngăn chặnvi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, thựcsự đi vào nền nếp, thực chất, hiệu quả.

- Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổchức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thựchiện quy định nêu gương. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng và cánbộ, đảng viên vi phạm. Khen thưởng, biểu dương, động viên kịp thời những môhình hay, các điển hình tiên tiến, tấm gương tiêu biểu.
KẾT LUẬN
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tựlực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sự vậndụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, đápứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn quân,toàn dân ta trong công cuộc đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới đấtnước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực hiện tốt chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phongcách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nướcphồn vinh, hạnh phúc” là một giải pháp hữu hiệu, góp phần thực hiện thắng lợicác nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Đây là việc làm thiết thực để mỗicán bộ, đảng viên phát huy cao độ ý thức, trách nhiệm, tinh thần cống hiến, laođộng sáng tạo, phục sự Tổ quốc, phục sự dân tộc, phục vụ nhân dân, tiếp tục pháttriển sự nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, xây dựng đất nướcngày càng phồn vinh, hạnh phúc, làm tiền đề căn bản hướng đến năm 2045, khi
nước ta kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay lànước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ đạt mục tiêu “trở thành nước pháttriển, thu nhập cao”
như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.



Nguồn tin: BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

Video liên quan

Chủ Đề