Tiêu sử về nhân vật Mai Thúc Loan

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Người thực hiện: PHẠM NGỌC DUY
  2. LỊCH SỬ 6 HELLO
  3.   LỊCH SỬ 6 TÌM HIỂU NHÂN VẬT MAI THÚC LOAN - Mai Thúc Loan( Mai Hắc Đế: tên gọi khi làm vua. Theo Việt điện u linh, Mai Hắc Đế mang mệnh thủy tức là nước, mà nước được tượng trưng là màu đen. Vì vậy, ông lấy hiệu là Hắc Đế để hợp với mệnh của mình. Một số nguồn cũng cho hay, ông lấy hiệu là Mai Hắc Đế vì ông có màu da đen.) là vị vua người Việt thời Bắc thuộc, anh hùng dân tộc, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống sự chiếm đóng của nhà Đường ở Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8.
  4. LỊCH SỬ 6 TÌM HIỂU NHÂN VẬT MAI THÚC LOAN - Mai Thúc Loan sinh vào khoảng cuối thế kỷ 7, tại thôn Ngọc Trừng, Hoan Châu, nay thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An. - Quê quán: Theo sách ”Việt sử tiêu án”, Mai Thúc Loan là người làng Hương Lãm, huyện Nam Đường, nay là thị trấn Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. - Cha mẹ mất sớm, ông được người bạn của bố là Đinh Thế đem nuôi, sau gả con gái là Ngọc Tô cho. - Sinh thời Mai Thúc Loan vốn rất khỏe mạnh, giỏi đô vật, học rất giỏi và có chí lớn. - Nhờ chí du ngoạn lại được vợ hết lòng ủng hộ, Mai Thúc Loan kết thân với nhiều hào kiệt, sau này trở thành những tướng tài tụ nghĩa dưới lá cờ của ông.


Page 2

YOMEDIA

"Bài giảng Lịch sử 6: Tìm hiểu nhân vật Mai Thúc Loan" được biên soạn giúp học sinh nắm được tìm hiểu về tên gọi khi làm vua, tiểu sử, nhân thân, quê quán của Mai Thúc Loan, sự nghiệp của ông và những đóng góp cho lịch sử dân tộc.

Tiêu sử về nhân vật Mai Thúc Loan

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

(Baonghean) LTS: Hướng tới kỷ niệm 1.300 năm khởi nghĩa Hoan Châu và Lễ hội Vua Mai 2013, nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ về một cuộc khởi nghĩa oanh liệt trên đất Hoan Châu, và thân thế, sự nghiệp của người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Mai Thúc Loan (Vua Mai), Báo Nghệ An trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc khái lược về cuộc khởi nghĩa Hoan Châu diễn ra cách đây 1.300 năm.

1. Quê hương

Mai Thúc Loan là một vị đế vương, anh hùng dân tộc, thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Hoan Châu chống ách đô hộ nhà Đường đầu thế kỷ VIII. Sinh ra, lớn lên, dựng nghiệp trên đất Nghệ - Tĩnh, cuộc đời và sự nghiệp hiển hách của ông ghi đậm dấu ấn của quê hương xứ Nghệ.Sách Khâm định Việt sử không giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn, ghi Mai Thúc Loan là “người Mai Phụ, huyện Thiên Lộc”. làng Mai Phụ xưa nay thuộc xã Mai Phụ,  huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Mai Phụ, bà mẹ họ Mai đã dời lên Ngọc Trừng, nay thuộc xã Nam Thái, huyện nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nhiều truyền thuyết dân gian, gia phả, văn tế, hát chầu văn… đều xác nhận quê hương của họ Mai từ Mai Phụ dời lên Ngọc Trừng.Mai Thúc Loan sinh ra và lớn lên ở động Cồn Chèm (làng Ngọc Trừng, xã Nam Thái, Nam Đàn) - nơi ông chấp nhận muôn nỗi đắng cay, tủi nhục của một cậu bé mồ côi cho đến khi ông thành thủ lĩnh tối cao của cuộc khởi nghĩa Hoan Châu.Tại các xã Nam Thái, Vân Diên và Thị trấn Nam Đàn còn bảo tồn nhiều di tích quý như mộ thân mẫu Vua Mai, đền thờ Mai Hắc Đế, di tích Thành Vạn An cùng nhiều tư liệu và lễ hội dân gian gắn liền với cuộc khởi nghĩa, kháng chiến của Vua Mai với niềm tôn vinh của nhân dân.Phát tích ở vùng Nga Sơn – Thanh Hóa gắn liền với huyền tích “Quả dưa hấu” và nhân vật Mai An Tiêm từ thuở sơ khai dựng nước, đến nay dòng họ Mai đã có trực hệ ở hầu khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Tại Nghệ An, Hà Tĩnh, đến nay theo họ Mai ở Việt Nam tập hợp đã có 26 chi họ, trải đều ở hai tỉnh. Cũng như nhiều dòng tộc khác của vùng Nghệ - Tĩnh, họ Mai đã góp phần tô thắm thêm lịch sử và truyền thống của người dân xứ Nghệ.Về gia thế Mai Thúc Loan cũng còn một số khác biệt nhất định giữa tư liệu truyền thuyết, gia phả với các nguồn sử liệu khác cần tiếp tục nghiên cứu, xác minh, nhưng tất cả đều phản ánh ông là một người yêu nước, dũng cảm và mưu trí, sớm nuôi chí diệt thù cứu nước, cứu dân.Theo truyện Hương lãm Mai Đế ký trong Tân đính hiệu bình Việt điện u linh thì Mai Thúc Loan có cha tên là Mai Sinh và mẹ là Vương Thị. Khi sinh ra Mai Thúc Loan, ông bà Mai Sinh đã căn cứ vào một giấc mộng của bà lúc sắp sinh. Chồng bà bèn đặt tên con là Phượng, tên tự là Thúc Loan, để ghi lại cái điềm được thấy trong giấc mộng.Ngày nay, nhân dân xã Vân Diên, huyện Nam Đàn lại truyền tụng nhau: Cha của bà Mai mẫu là trưởng phu đồn điền muối Thạch Hà, bà Mai mẫu lại có thai với phu đồn điền muối nên theo lệ làng bà bị bỏ rọ trôi sông. Vì thương con gái nên cha bà đã bố trí làm một hình nộm, mặc quần áo giống như bà và đưa ra sông thả. Nhưng do sợ dân làng biết được nên ông đã bí mật đưa bà vào vùng núi non hẻo lánh (xã Vân Diên, Nam Đàn ngày nay) để trú ngụ và sinh con.Hầu hết các tư liệu đều cho rằng, năm Mai Thúc Loan 10 tuổi, mẹ đi hái củi bị hổ giết hại, chẳng bao lâu cha mất, vị vua tương lai rơi vào cảnh mồ côi. Điều may mắn là một người bạn của cha Mai Thúc Loan là Đinh Thế đã đem Mai Thúc Loan về nuôi, coi ông như con đẻ và sau đó gả con gái Ngọc Tô cho ông.Qua các nguồn tư liệu từ gia phả, thần phả… thì bà Ngọc Tô đã sinh hạ được người con gái đầu là Mai Thị Cầu, cặp song sinh tiếp theo là Mai Bảo Sơn, em là Mai Kỳ Sơn. Người con út mệnh yểu, sớm qua đời. Thời gian ngắn sau đó, thương con bà sinh bệnh rồi cũng mất sớm. Các con của ông bà sớm là những người con ngoan ngoãn, sau này lớn lên trở thành những người giỏi giang, có chí khí, yêu nước, thương dân. Theo nguồn tư liệu điền dã tại đền Dục Anh, ở Hòa Mục (phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội), tại đền Điều Yêu, ở An Lão, Hải Phòng, cùng việc chắp nối tư liệu nghiên cứu của một số tác giả khác, có thể khẳng định về người vợ thứ hai của Vua Mai là bà Phạm Thị Uyển. Để thuận lợi cho mưu đồ việc quốc gia đại sự, đi lại khắp nơi trong nước với mục đích liên kết những người đồng tâm, đồng chí hướng, Mai Thúc Loan lấy người vợ thứ hai ngoài quê hương mình. Đường Lâm (quê bà Phạm Thị Uyển) thực sự là một căn cứ của cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan lãnh đạo.

Tiêu sử về nhân vật Mai Thúc Loan

                                    Lễ hội Vua Mai ở Nam Đàn. Ảnh: Sỹ Minh.Các con của Vua Mai sau này là những vị tướng chỉ huy các mặt trận trong khởi nghĩa Hoan Châu. Vùng Điều Yêu (xã Quốc Tuấn, huyện An Dương, Hải Phòng) vẫn còn lưu giữ thần tích và một số truyền thuyết về hoạt động của ba người con của Mai Thúc Loan là Mai Thị Cầu, Mai Bảo Sơn, Mai Kỳ Sơn.Bia ký trên mộ Mai mẫu đã khắc ghi công đức, đóng góp của đại gia đình Mai Thúc Loan với đất nước: “… Các con cháu của bà như Vua Mai, con dâu đầu Đinh Thị Ngọc Tô, con dâu kế Phạm Thị Uyển, các cháu: Hoàng tử Cả (Mai Bảo Sơn), Hoàng tử thứ (Mai Kỳ Sơn), Mai Thúc Huy, Mai Thị Cầu đã hy sinh anh dũng…”. Đại gia đình Mai Thúc Loan đều góp công vào khởi nghĩa Hoan Châu và cuối cùng lần lượt trước, sau, ở mặt trận Hoan Châu hay Tống Bình, Đông Bắc, hiến dâng đời mình cho dân tộc, bảo vệ quê hương, đất nước, giữ vững khí tiết vì nền độc lập, tự chủ của nước Việt.Khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Thúc Loan lãnh đạo bùng nổ năm Quý Sửu, năm đầu niên hiệu Khai Nguyên đời vua Đường Huyền Tông, tức năm 713. Về năm thất bại, cũng từ những nguồn sử liệu trên cho phép kết luận là năm Nhâm Tuất, niên hiệu Khai Nguyên thứ 10 đời vua Đường Huyền Tông, tức năm 722. Dây cũng chính là những kết quả nghiên cứu mới đã được kết luận từ Hội thảo khoa học Quốc gia “Mai Thúc Loan với Khởi nghĩa Hoan Châu” do Khoa Lịch sử Trường Đại học Vinh phối hợp với Viện Sử học Việt Nam tổ chức năm 2008.

(Còn nữa)

Khoa Sử - ĐH Vinh

Giá trị lịch sử

Mai Thúc Loan – người anh hùng đập tan ách đô hộ nhà Đường dành độc lập

Mai Thúc Loan – người anh hùng đập tan ách đô hộ nhà Đường dành độc lập Mai Hắc Đế (chữ Hán: 梅黑帝; 670 – 723), tên húy là Mai Thúc Loan (梅叔鸞), là vị vua người Việt thời Bắc thuộc, anh hùng dân tộc, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ánh đô hộ của nhà Đường ở Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8. Mai Thúc Loan sinh vào năm Canh Ngọ (670) tại thôn Ngọc Trừng, Hoan Châu, nay thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An. Theo Việt điện u linh, cha của Mai Thúc Loan là Mai Hoàn, mẹ là Mai An Hòa nguyên gốc Thạch Hà, Hà Tĩnh, lưu lạc sang vùng Nam Đàn, Nghệ An. Truyền thuyết dân gian ở vùng huyện Thạch Hà cho hay rằng, họ Mai chính là họ của thân mẫu Đức ông Mai Thúc Loan còn như thân sinh của ông họ tên gì thì chưa rõ. Đức ông Mai Thúc Loan phải chịu cảnh mồ côi cha từ lúc còn rất nhỏ tuổi, gia đình ông thuộc vào hàng nghèo khó nhất vùng Kẻ Mỏm đương thời. Tài sản quý giá nhất của Đức ông Mai Thúc Loan chính là sức khoẻ mà ông may mắn được trời ban cho. Đời truyền rằng Đức ông Mai Thúc Loan người cao to, tay buông dài quá gối còn làn da thì rất đen. Ông rất giỏi võ nghệ, lại có tiếng là sáng dạ và đặc biệt là rất có... duyên! Năm Đức ông Mai Thúc Loan chưa đầy 10 tuổi thì thân mẫu ông dời nhà ra định cư ở vùng rừng núi Ngọc Trừng (vùng này ngày nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Tại đây Đức ông Mai Thúc Loan đã phải làm đủ mọi việc nặng nhọc nhất để kiếm sống : vào rừng lấy củi về bán, chăn trâu, đi cày thuê cuốc mướn, ở đợ...Tuy phải sống rất cơ cực và vất vả phải chịu đựng thiếu thốn trăm bễ nhưng ông luôn luôn yêu đời. Hai mẹ con ông lúc nào cũng biết thương yêu đùm bọc và che chở cho nhau. Bấy giờ, Đức ông Mai Thúc Loan lại có tiếng là người rất giàu lòng hiếu thảo, cho nên, dân trong vùng ai cũng đều quý mến gia đình Đức ông Mai Thúc Loan. Sau khi mẹ mất sớm, Đức ông được người bạn của cha là Đinh Thế đem về nuôi, sau gả con gái là Ngọc Tô cho. Sinh thời, Mai Thúc Loan vốn rất khỏe mạnh, giỏi đô vật, học rất giỏi và có chí lớn. Ông mở lò vật, lập phường săn, chiêu mộ trai tráng trong vùng mưu việc lớn. Vợ ông giỏi việc nông trang, nhờ đó "gia sản ngày một nhiều, môn hạ ngày một đông." Nhờ chí du ngoạn lại được vợ hết lòng ủng hộ, Mai Thúc Loan kết thân với nhiều hào kiệt, sau này trở thành những tướng tài tụ nghĩa dưới lá cờ của ông như Phòng Hậu, Thôi Thặng, Đàn Vân Du, Mao Hoành, Tùng Thụ, Tiết Anh, Hoắc Đan, Khổng Qua, Cam Hề, Sỹ Lâm, Bộ Tân... Sách An Nam chí lược viết về ông là "Soái trưởng Giao Châu". Bộ chính sử đầu tiên của nước ta có đề cập tới nhân vật Đức ông Mai Thúc Loan là ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ (Ngoại kỉ, quyển 5, tờ 4-b) nhưng tất cả cũng chỉ gồm vỏn vẹn chừng độ ba bốn chục chữ và tất nhiên là số lượng những thông tin quan trọng hầu như không có gì đáng kể. Mấy thế kỉ sau, các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều Nguyễn với việc biên soạn bộ KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (Tiền biên, quyển 4, tờ 21), đành là có cố gắng sưu tầm thêm tư liệu và ghi chép về nhân vật Đức ông Mai Thúc Loan tương đối dài hơn, song, mức độ cũng chỉ rất giản lược. Ở Trung Quốc, từ góc độ chủ yếu là ghi nhận hoạt động của đội ngũ quan lại trực tiếp nắm quyền đô hộ tại nước ta, một vài tác phẩm sử học mà đặc biệt hơn cả là TÂN ĐƯỜNG THƯ (do Âu Dương Tu và Tống Kỳ biên soạn), cũng có viết về Đức ông Mai Thúc Loan. Tất nhiên là bức chân dung Đức ông Mai Thúc Loan trong sử sách của Trung Quốc luôn luôn bị bóp méo, hành trạng của Đức ông Mai Thúc Loan trở nên xa lạ với chính ông và bối cảnh lịch sử của thời đại ông. Tóm lại, thông tin về Đức ông Mai Thúc Loan trong kho thư tịch cổ là rất rời rạc và nghèo nàn. Mặc dù vậy, nếu cẩn trọng tổng kết những ghi chép tản mạn trong các bộ sử cũ của ta và của Trung Quốc, đồng thời, cố gắng đối chiếu thật tỉ mỉ với nội dung các thần tích và lời kể của truyền thuyết dân gian (nhất là thần tích và truyền thuyết dân gian ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh), cũng có thể bước đầu phác hoạ được vài nét về lí lịch cuộc đời và sự nghiệp của Đức ông Mai Thúc Loan. Đức ông Mai Thúc Loan lớn lên trong cảnh non sông bị chìm đắm bởi ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường (618-907), trăm họ phải chịu đựng không biết bao nhiêu nỗi thống khổ. Bấy giờ ở Trung Quốc, phe cánh của Vũ Tắc Thiên đã bị lật đổ, Hoàng Đế mới của nhà Đường là Đường Huyền Tông (712-756) ra sức tìm đủ mọi cách để củng cố ngôi vị và quyền lực của mình. Ách thống trị của nhà Đường đối với nước ta vì thế mà càng thêm tàn bạo. Lợi dụng việc trấn trị ở nơi quá cách xa triều đình trung ương, bọn quan lại đô hộ tự cho mình quyền được tự tung tự tác. Nhiều thư tịch cổ của Trung Quốc cũng đã thừa nhận rằng, viên quan nào muốn được cử đi An Nam Đô Hộ Phủ cũng đều phải bỏ tiền ra hối lộ, ấy gọi là tiền gạo tiến thân (219). Để bù lại số tiền gạo tiến thân đã bỏ ra và quan trọng hơn nữa, để làm giàu cho riêng mình, chúng tìm đủ cách để vơ vét. Lúc này, Tô-Dung-Điệu tuy đã được đặt ra nhưng chế độ cống nạp vẫn được áp dụng một cách rất phổ biến và ráo riết. Mượn danh nghĩa thu cống phẩm cho triều đình, bọn quan lại nhà Đường ngang nhiên tước đoạt của nhân dân ta tất cả những gì mà chúng xếp vào loại đặc sản, tất cả những gì mà chúng cho là quý nhất, tốt nhất, đẹp nhất và lạ nhất, tất cả những gì chúng muốn có và tất cả những gì mà chúng không muốn dân ta có. Phần tài sản của nhân dân ta mà chúng ngang nhiên tước đoạt một cách trắng trợn này được gọi là ngoại suất (220). Với xã hội đương thời, ngoại suất luôn luôn là nỗi ám ảnh nặng nề. Điều đáng nói là hầu hết các khoản ngoại suất đều được chính quyền đô hộ nhà Đường quy ra lụa và cứ mỗi lần quy đổi là thêm một lần thiệt hại cho dân. Theo một số tài liệu kể lại, Đức ông Mai Thúc Loan lại phải đi phu. Bấy giờ chính quyền đô hộ của nhà Đường quy định dân đinh mỗi năm phải đi phu từ 20 đến 50 ngày. Tất nhiên, đó chỉ là quy định trên giấy tờ chứ trong thực tế thì mọi dân đinh nghèo khổ đều phải quanh năm đi lao động không công để phục dịch cho giai cấp thống trị. Lần này, Đức ông Mai Thúc Loan phải làm phu đi gánh quả vải. Đường xa, gánh nặng, cực nhọc trăm bề, cho nên hễ nghe tới chuyện phải đi làm phu gánh quả vải là ai cũng ngao ngán. Lời một bài hát chầu văn ở vùng Nam Đàn (tỉnh Nghệ An) có câu : Nhớ khi nội thuộc Đường triều. Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai. Sâu quả vải vì ai vạch lá. Ngựa hồng trần kể đã héo hon. Không thể tiếp tục chịu đựng mãi cảnh bị áp bức bất công được nữa, Đức ông Mai Thúc Loan đã kêu gọi toàn thể đoàn phu gánh quả vải đồng lòng vùng dậy chống ách đô hộ của nhà Dường. Ngay lập tức, lời kêu gọi của ông đã được toàn thể đoàn phu nhất tề hưởng ứng. Dân khắp cõi cũng nồng nhiệt ủng hộ lực lượng nghĩa sĩ do Đức ông Mai Thúc Loan vừa mới thành lập và lãnh đạo. Quan quân đô hộ nhà Đường phải thực sự đối đầu với một cuộc đấu tranh vũ trang rất mạnh mẽ. Hiện nay các nhà nghiên cứu đều thống nhất: sưu cao, thuế nặng là nguyên nhân khiến nhân dân nổi dậy chống lại ách đô hộ nhà Đường, nổi bật là khởi nghĩa Hoan Châu. Đây là cuộc khởi nghĩa có sự chuẩn bị, biết chọn thời cơ, không phải một cuộc bạo động. Chuyện "cống vải" của An Nam có thể chỉ là một chi tiết của truyền thuyết, không có ý nghĩa quyết định cuộc khởi nghĩa trong thực tế. Tháng 4 năm Quý Sửu (713), Mai Thúc Loan quyết định dấy cờ, đánh thẳng vào Châu Trị mở rộng địa bàn Hoan Châu cho cuộc khởi nghĩa. Mai Thúc Loan phát hịch kể tội giặc Đường và kêu gọi người Việt đứng lên gìn giữ non sông. Từ căn cứ Hùng Sơn, Mai Thúc Loan mở rộng địa bàn, xây thành Vạn An quy mô của một kinh thành. Từ đây Mai Thúc Loan tìm cách liên kết với các thủ lĩnh và nhân dân các châu miền núi, với Champa để có thêm lực lượng chống quân Đường. Địa bàn hoạt động đầu tiên cũng là địa bàn hoạt động chủ yếu và lâu dài nhất của nghĩa quân Đức ông Mai Thúc Loan chính là vùng Châu Hoan, Châu Diễn và Châu Ái. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau ngày dựng cờ xướng nghĩa, theo ghi chép của các thư tịch cổ Trung Quốc thì Đức ông Mai Thúc Loan đã nhanh chóng liên kết và tập hợp được dân chúng của 32 châu. Hơn thế nữa, cũng theo ghi chép của các thư tịch cổ Trung Quốc thì Đức ông Mai Thúc Loan còn nhận được sự hưởng ứng mãnh liệt của nhân dân một số nước chung quanh. Sử cũ chép rằng Đức ông Mai Thúc Loan đã “liên kết với dân các nước Lâm Ấp, Chân Lạp và Kim Lân, giữ vững Nam Hải, quân số lên đến 40 vạn người”. Nhờ có lực lượng khá đông đảo lại còn được nhân dân các địa phương đồng lòng ủng hộ. từ quê nhà là đất Nghệ An, Đức ông Mai Thúc Loan đã đưa đại quân rầm rộ tiến thẳng ra Bắc mà mục tiêu quan trọng hàng đầu chính là thành Tống Bình (vùng Hà Nội ngày nay). Quân Đức ông Mai Thúc Loan tiến đến đâu là ách đô hộ của giặc tan rã tới đó. Trước khi tiến đánh thủ phủ đô hộ ngoài Giao Châu, Mai Thúc Loan được quân dân tôn phong lên ngôi Hoàng đế lấy vương hiệu là Mai Hắc Đế (Vua Đen họ Mai). Và, chỉ trong một trận ác chiến, Mai Thúc Loan đã chiếm được phủ thành Tống Bình (Hà Nội), Viên quan đứng đầu cơ quan đô hộ của nhà Dường ở An Nam Đô Hộ Phủ lúc bấy giờ là Quang Sở Khách vì khiếp đảm trước những cuộc tấn công ồ ạt của nghĩa quân Đức ông Mai Thúc Loan nên đã nhanh chân tháo chạy về Trung Quốc. Vua Mai Hắc Đế giành lại giang sơn. Đất nước ta được giải phóng nhân dân khắp nơi nô nức đầu quân, lực lượng nghĩa quân tới hàng chục vạn người. Vua Mai Hắc Đế, thay vì đóng đô ở thành Tống Bình lại dẫn quân quay về quê nhà và đóng đô tại thành Vạn An (thành này nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Thành Vạn An nằm giữa khu căn cứ Sa Nam. Khu căn cứ này từng được một số nhà nghiên cứu khảo sát và mô tả khá chi tiết như sau : “Đấy là vùng núi rừng rậm rạp nằm cạnh sông Lam ở khúc hiểm sâu. Ông lấy Vệ Sơn làm trung tâm, đóng đại bản doanh của nghĩa quân. Dọc bờ sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài hơn nghìn mét. Đấy là thành Vạn An nổi tiếng, có núi Đụn (Hùng Sơn) làm chỗ dựa ; phía trong núi là dải thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng làm nơi trữ lương thực, vũ khí ; phía ngoài núi, có nhiều đồn trại đóng ở cạnh sườn ; chung quanh núi, sông Lam vây bọc như con hào tự nhiên. Bao quanh trung tâm (Vệ Sơn), nghĩa quân xây dưng một hệ thống đồn trại nương tựa lẫn nhau : Biều Sơn (hình quả bầu) bảo vệ cánh tả, Liêu Sơn bảo vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn (hình đai ngọc) cạnh thành Vạn An, là đồn tổng chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo quân thuỷ bộ”. Như vậy là chỉ trong vòng hơn 30 năm (từ năm Lý Tự Tiên và Đinh Kiến dõng dạc cất lời hiệu triệu bốn phương cầm vũ khí để vùng dậy khởi nghĩa cho đến năm Đức ông Mai Thúc Loan vung gươm quyết chí đại định), chính quyền đô hộ của nhà Đường đã hai lần bị đánh đổ. Thắng lợi của Đức ông Mai Thúc Loan là đòn cảnh cáo quyết liệt đối với mưu đồ chung của chủ nghĩa bành trướng đại Hán và là một dự báo mới cho khả năng giành được trọn vẹn độc lập và tự chủ của nhân dân ta. Tuy nhiên, bình đẳng như mọi nhân vật lịch sử khác, vua Mai Thúc Loan cũng có những hạn chế tất yếu của ông. Việc vua Mai Thúc Loan chọn đất đóng đô và đặc biệt là cách bố phòng chung quanh thành Vạn An, điều mà bất cứ ai cũng đều có thể dễ dàng nhận ra là tư tưởng phòng ngự đã xuất hiện quá sớm và chi phối khá mạnh suy nghĩ cũng như hành động của ông. Khi mà bọn quan quân đô hộ chỉ mới tháo chạy chứ chưa hoàn toàn bị tiêu diệt, khi mà việc trấn áp tay chân của phong kiến phương Bắc tiến hành chưa triệt để và khi mà chính quyền mới chưa được xây dựng một cách chắc chắn và hoàn chỉnh thì việc lui về phòng thủ tại thành Vạn An ngay trong năm 722 quả là một quyết định vội vàng và điều này đã bị kẻ thù nhanh chóng phát hiện rồi tìm cách lợi dụng. Tổng hợp tư InterNet Ths Nguyễn Thy Ngà

Mai Hắc Đế (chữ Hán: 梅黑帝; 670 – 723), tên húy là Mai Thúc Loan (梅叔鸞), là vị vua người Việt thời Bắc thuộc, anh hùng dân tộc, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ánh đô hộ của nhà Đường ở Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8.

Mai Thúc Loan sinh vào năm Canh Ngọ (670) tại thôn Ngọc Trừng, Hoan Châu, nay thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An. Theo Việt điện u linh, cha của Mai Thúc Loan là Mai Hoàn, mẹ là Mai An Hòa nguyên gốc Thạch Hà, Hà Tĩnh, lưu lạc sang vùng Nam Đàn, Nghệ An.

Truyền thuyết dân gian ở vùng huyện Thạch Hà cho hay rằng, họ Mai chính là họ của thân mẫu Đức ông Mai Thúc Loan còn như thân sinh của ông họ tên gì thì chưa rõ. Đức ông Mai Thúc Loan phải chịu cảnh mồ côi cha từ lúc còn rất nhỏ tuổi, gia đình ông thuộc vào hàng nghèo khó nhất vùng Kẻ Mỏm đương thời.

Tài sản quý giá nhất của Đức ông Mai Thúc Loan chính là sức khoẻ mà ông may mắn được trời ban cho. Đời truyền rằng Đức ông Mai Thúc Loan người cao to, tay buông dài quá gối còn làn da thì rất đen. Ông rất giỏi võ nghệ, lại có tiếng là sáng dạ và đặc biệt là rất có... duyên! Năm Đức ông Mai Thúc Loan chưa đầy 10 tuổi thì thân mẫu ông dời nhà ra định cư ở vùng rừng núi Ngọc Trừng (vùng này ngày nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

Tại đây Đức ông Mai Thúc Loan đã phải làm đủ mọi việc nặng nhọc nhất để kiếm sống : vào rừng lấy củi về bán, chăn trâu, đi cày thuê cuốc mướn, ở đợ...Tuy phải sống rất cơ cực và vất vả phải chịu đựng thiếu thốn trăm bễ nhưng ông luôn luôn yêu đời.

Hai mẹ con ông lúc nào cũng biết thương yêu đùm bọc và che chở cho nhau. Bấy giờ, Đức ông Mai Thúc Loan lại có tiếng là người rất giàu lòng hiếu thảo, cho nên, dân trong vùng ai cũng đều quý mến gia đình Đức ông Mai Thúc Loan. Sau khi mẹ mất sớm, Đức ông được người bạn của cha là Đinh Thế đem về nuôi, sau gả con gái là Ngọc Tô cho.

Sinh thời, Mai Thúc Loan vốn rất khỏe mạnh, giỏi đô vật, học rất giỏi và có chí lớn. Ông mở lò vật, lập phường săn, chiêu mộ trai tráng trong vùng mưu việc lớn. Vợ ông giỏi việc nông trang, nhờ đó "gia sản ngày một nhiều, môn hạ ngày một đông."

Nhờ chí du ngoạn lại được vợ hết lòng ủng hộ, Mai Thúc Loan kết thân với nhiều hào kiệt, sau này trở thành những tướng tài tụ nghĩa dưới lá cờ của ông như Phòng Hậu, Thôi Thặng, Đàn Vân Du, Mao Hoành, Tùng Thụ, Tiết Anh, Hoắc Đan, Khổng Qua, Cam Hề, Sỹ Lâm, Bộ Tân...

Sách An Nam chí lược viết về ông là "Soái trưởng Giao Châu".

Bộ chính sử đầu tiên của nước ta có đề cập tới nhân vật Đức ông Mai Thúc Loan là ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ (Ngoại kỉ, quyển 5, tờ 4-b) nhưng tất cả cũng chỉ gồm vỏn vẹn chừng độ ba bốn chục chữ và tất nhiên là số lượng những thông tin quan trọng hầu như không có gì đáng kể.

Mấy thế kỉ sau, các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều Nguyễn với việc biên soạn bộ KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (Tiền biên, quyển 4, tờ 21), đành là có cố gắng sưu tầm thêm tư liệu và ghi chép về nhân vật Đức ông Mai Thúc Loan tương đối dài hơn, song, mức độ cũng chỉ rất giản lược.

Ở Trung Quốc, từ góc độ chủ yếu là ghi nhận hoạt động của đội ngũ quan lại trực tiếp nắm quyền đô hộ tại nước ta, một vài tác phẩm sử học mà đặc biệt hơn cả là TÂN ĐƯỜNG THƯ (do Âu Dương Tu và Tống Kỳ biên soạn), cũng có viết về Đức ông Mai Thúc Loan.

Tất nhiên là bức chân dung Đức ông Mai Thúc Loan trong sử sách của Trung Quốc luôn luôn bị bóp méo, hành trạng của Đức ông Mai Thúc Loan trở nên xa lạ với chính ông và bối cảnh lịch sử của thời đại ông.

Tóm lại, thông tin về Đức ông Mai Thúc Loan trong kho thư tịch cổ là rất rời rạc và nghèo nàn. Mặc dù vậy, nếu cẩn trọng tổng kết những ghi chép tản mạn trong các bộ sử cũ của ta và của Trung Quốc, đồng thời, cố gắng đối chiếu thật tỉ mỉ với nội dung các thần tích và lời kể của truyền thuyết dân gian (nhất là thần tích và truyền thuyết dân gian ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh), cũng có thể bước đầu phác hoạ được vài nét về lí lịch cuộc đời và sự nghiệp của Đức ông Mai Thúc Loan.

Đức ông Mai Thúc Loan lớn lên trong cảnh non sông bị chìm đắm bởi ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường (618-907), trăm họ phải chịu đựng không biết bao nhiêu nỗi thống khổ. Bấy giờ ở Trung Quốc, phe cánh của Vũ Tắc Thiên đã bị lật đổ, Hoàng Đế mới của nhà Đường là Đường Huyền Tông (712-756) ra sức tìm đủ mọi cách để củng cố ngôi vị và quyền lực của mình.

Ách thống trị của nhà Đường đối với nước ta vì thế mà càng thêm tàn bạo. Lợi dụng việc trấn trị ở nơi quá cách xa triều đình trung ương, bọn quan lại đô hộ tự cho mình quyền được tự tung tự tác.

Nhiều thư tịch cổ của Trung Quốc cũng đã thừa nhận rằng, viên quan nào muốn được cử đi An Nam Đô Hộ Phủ cũng đều phải bỏ tiền ra hối lộ, ấy gọi là tiền gạo tiến thân (219). Để bù lại số tiền gạo tiến thân đã bỏ ra và quan trọng hơn nữa, để làm giàu cho riêng mình, chúng tìm đủ cách để vơ vét.

Lúc này, Tô-Dung-Điệu tuy đã được đặt ra nhưng chế độ cống nạp vẫn được áp dụng một cách rất phổ biến và ráo riết. Mượn danh nghĩa thu cống phẩm cho triều đình, bọn quan lại nhà Đường ngang nhiên tước đoạt của nhân dân ta tất cả những gì mà chúng xếp vào loại đặc sản, tất cả những gì mà chúng cho là quý nhất, tốt nhất, đẹp nhất và lạ nhất, tất cả những gì chúng muốn có và tất cả những gì mà chúng không muốn dân ta có.

Phần tài sản của nhân dân ta mà chúng ngang nhiên tước đoạt một cách trắng trợn này được gọi là ngoại suất (220). Với xã hội đương thời, ngoại suất luôn luôn là nỗi ám ảnh nặng nề. Điều đáng nói là hầu hết các khoản ngoại suất đều được chính quyền đô hộ nhà Đường quy ra lụa và cứ mỗi lần quy đổi là thêm một lần thiệt hại cho dân.

Theo một số tài liệu kể lại, Đức ông Mai Thúc Loan lại phải đi phu. Bấy giờ chính quyền đô hộ của nhà Đường quy định dân đinh mỗi năm phải đi phu từ 20 đến 50 ngày. Tất nhiên, đó chỉ là quy định trên giấy tờ chứ trong thực tế thì mọi dân đinh nghèo khổ đều phải quanh năm đi lao động không công để phục dịch cho giai cấp thống trị. Lần này, Đức ông Mai Thúc Loan phải làm phu đi gánh quả vải. Đường xa, gánh nặng, cực nhọc trăm bề, cho nên hễ nghe tới chuyện phải đi làm phu gánh quả vải là ai cũng ngao ngán. Lời một bài hát chầu văn ở vùng Nam Đàn (tỉnh Nghệ An) có câu :

Nhớ khi nội thuộc Đường triều.

Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai.

Sâu quả vải vì ai vạch lá.

Ngựa hồng trần kể đã héo hon.

Không thể tiếp tục chịu đựng mãi cảnh bị áp bức bất công được nữa, Đức ông Mai Thúc Loan đã kêu gọi toàn thể đoàn phu gánh quả vải đồng lòng vùng dậy chống ách đô hộ của nhà Dường.

Ngay lập tức, lời kêu gọi của ông đã được toàn thể đoàn phu nhất tề hưởng ứng. Dân khắp cõi cũng nồng nhiệt ủng hộ lực lượng nghĩa sĩ do Đức ông Mai Thúc Loan vừa mới thành lập và lãnh đạo. Quan quân đô hộ nhà Đường phải thực sự đối đầu với một cuộc đấu tranh vũ trang rất mạnh mẽ.

Tiêu sử về nhân vật Mai Thúc Loan

Tiêu sử về nhân vật Mai Thúc Loan

Hiện nay các nhà nghiên cứu đều thống nhất: sưu cao, thuế nặng là nguyên nhân khiến nhân dân nổi dậy chống lại ách đô hộ nhà Đường, nổi bật là khởi nghĩa Hoan Châu. Đây là cuộc khởi nghĩa có sự chuẩn bị, biết chọn thời cơ, không phải một cuộc bạo động. Chuyện "cống vải" của An Nam có thể chỉ là một chi tiết của truyền thuyết, không có ý nghĩa quyết định cuộc khởi nghĩa trong thực tế.

Tháng 4 năm Quý Sửu (713), Mai Thúc Loan quyết định dấy cờ, đánh thẳng vào Châu Trị mở rộng địa bàn Hoan Châu cho cuộc khởi nghĩa.

Mai Thúc Loan phát hịch kể tội giặc Đường và kêu gọi người Việt đứng lên gìn giữ non sông. Từ căn cứ Hùng Sơn, Mai Thúc Loan mở rộng địa bàn, xây thành Vạn An quy mô của một kinh thành.

Từ đây Mai Thúc Loan tìm cách liên kết với các thủ lĩnh và nhân dân các châu miền núi, với Champa để có thêm lực lượng chống quân Đường.

Địa bàn hoạt động đầu tiên cũng là địa bàn hoạt động chủ yếu và lâu dài nhất của nghĩa quân Đức ông Mai Thúc Loan chính là vùng Châu Hoan, Châu Diễn và Châu Ái. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau ngày dựng cờ xướng nghĩa, theo ghi chép của các thư tịch cổ Trung Quốc thì Đức ông Mai Thúc Loan đã nhanh chóng liên kết và tập hợp được dân chúng của 32 châu.

Hơn thế nữa, cũng theo ghi chép của các thư tịch cổ Trung Quốc thì Đức ông Mai Thúc Loan còn nhận được sự hưởng ứng mãnh liệt của nhân dân một số nước chung quanh. Sử cũ chép rằng Đức ông Mai Thúc Loan đã “liên kết với dân các nước Lâm Ấp, Chân Lạp và Kim Lân, giữ vững Nam Hải, quân số lên đến 40 vạn người”.

Nhờ có lực lượng khá đông đảo lại còn được nhân dân các địa phương đồng lòng ủng hộ. từ quê nhà là đất Nghệ An, Đức ông Mai Thúc Loan đã đưa đại quân rầm rộ tiến thẳng ra Bắc mà mục tiêu quan trọng hàng đầu chính là thành Tống Bình (vùng Hà Nội ngày nay). Quân Đức ông Mai Thúc Loan tiến đến đâu là ách đô hộ của giặc tan rã tới đó.

Tiêu sử về nhân vật Mai Thúc Loan

Trước khi tiến đánh thủ phủ đô hộ ngoài Giao Châu, Mai Thúc Loan được quân dân tôn phong lên ngôi Hoàng đế lấy vương hiệu là Mai Hắc Đế (Vua Đen họ Mai).

Và, chỉ trong một trận ác chiến, Mai Thúc Loan đã chiếm được phủ thành Tống Bình (Hà Nội), Viên quan đứng đầu cơ quan đô hộ của nhà Dường ở An Nam Đô Hộ Phủ lúc bấy giờ là Quang Sở Khách vì khiếp đảm trước những cuộc tấn công ồ ạt của nghĩa quân Đức ông Mai Thúc Loan nên đã nhanh chân tháo chạy về Trung Quốc. Vua Mai Hắc Đế giành lại giang sơn. Đất nước ta được giải phóng nhân dân khắp nơi nô nức đầu quân, lực lượng nghĩa quân tới hàng chục vạn người.

Vua Mai Hắc Đế, thay vì đóng đô ở thành Tống Bình lại dẫn quân quay về quê nhà và đóng đô tại thành Vạn An (thành này nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Thành Vạn An nằm giữa khu căn cứ Sa Nam.

Tiêu sử về nhân vật Mai Thúc Loan

Khu căn cứ này từng được một số nhà nghiên cứu khảo sát và mô tả khá chi tiết như sau : “Đấy là vùng núi rừng rậm rạp nằm cạnh sông Lam ở khúc hiểm sâu. Ông lấy Vệ Sơn làm trung tâm, đóng đại bản doanh của nghĩa quân. Dọc bờ sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài hơn nghìn mét.

Đấy là thành Vạn An nổi tiếng, có núi Đụn (Hùng Sơn) làm chỗ dựa ; phía trong núi là dải thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng làm nơi trữ lương thực, vũ khí ; phía ngoài núi, có nhiều đồn trại đóng ở cạnh sườn ; chung quanh núi, sông Lam vây bọc như con hào tự nhiên.

Bao quanh trung tâm (Vệ Sơn), nghĩa quân xây dưng một hệ thống đồn trại nương tựa lẫn nhau : Biều Sơn (hình quả bầu) bảo vệ cánh tả, Liêu Sơn bảo vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn (hình đai ngọc) cạnh thành Vạn An, là đồn tổng chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo quân thuỷ bộ”.

Như vậy là chỉ trong vòng hơn 30 năm (từ năm Lý Tự Tiên và Đinh Kiến dõng dạc cất lời hiệu triệu bốn phương cầm vũ khí để vùng dậy khởi nghĩa cho đến năm Đức ông Mai Thúc Loan vung gươm quyết chí đại định), chính quyền đô hộ của nhà Đường đã hai lần bị đánh đổ.

Thắng lợi của Đức ông Mai Thúc Loan là đòn cảnh cáo quyết liệt đối với mưu đồ chung của chủ nghĩa bành trướng đại Hán và là một dự báo mới cho khả năng giành được trọn vẹn độc lập và tự chủ của nhân dân ta.

Tuy nhiên, bình đẳng như mọi nhân vật lịch sử khác, vua Mai Thúc Loan cũng có những hạn chế tất yếu của ông. Việc vua Mai Thúc Loan chọn đất đóng đô và đặc biệt là cách bố phòng chung quanh thành Vạn An, điều mà bất cứ ai cũng đều có thể dễ dàng nhận ra là tư tưởng phòng ngự đã xuất hiện quá sớm và chi phối khá mạnh suy nghĩ cũng như hành động của ông.

Khi mà bọn quan quân đô hộ chỉ mới tháo chạy chứ chưa hoàn toàn bị tiêu diệt, khi mà việc trấn áp tay chân của phong kiến phương Bắc tiến hành chưa triệt để và khi mà chính quyền mới chưa được xây dựng một cách chắc chắn và hoàn chỉnh thì việc lui về phòng thủ tại thành Vạn An ngay trong năm 722 quả là một quyết định vội vàng và điều này đã bị kẻ thù nhanh chóng phát hiện rồi tìm cách lợi dụng.

Tổng hợp tư InterNet

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang

5.235294 Tổng số:17 lượt

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Các tin khác

  • Hai di tích, thờ phụng nhị vị công thần bên bờ sông Mã
  • Đền – chùa Tó, thờ phụng An Dương Vương, Triệu Việt Vương
  • Đình Gia Thụy, Long Biên, thờ phụng tứ vị danh tướng thời An Dương Vương
  • Lăng Mỵ Châu Công chúa
  • Đình Cổ Loa (Ngự Triều Di Quy) thờ phụng An Dương Vương trên nền đại điện thiết triều
  • Đình Mạch Tràng, thờ phụng vua Thục An Dương Vương
  • Đình làng Dọc, thờ phụng Cao Sơn đại vương, Mỹ Ngư đại vương, Trung Quân đại vương và Bản Viện công chúa
  • Đình làng Tam Tảo, thờ phụng tứ vị thành hoàng thời An Dương Vương và thời Lý
  • Đền, chùa thôn Ngọc Tỉnh, xã Nam Lợi, thờ phụng An Dương Vương, Linh Lang Đại vương, thánh mẫu Liễu Hạnh và thờ Phật
  • Đình Phú Thọ và tục thờ thần Cao Các thời An Dương Vương
  • 12345...>>