Ví dụ đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp

Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp

Tác giả: PGS.TS. Tô Văn Hòa

Tóm tắt

“Luật hiến pháp” là thuật ngữ chỉ một “loại” pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, dùng để phân biệt với các “loại” pháp luật khác như pháp luật dân sự, pháp luật hình sự, pháp luật hành chính v.v. mà người học sẽ được học trong suốt quá trình cử nhân luật. Chương đầu của Giáo trình sẽ trình bày với người học những khái niệm cơ bản của LHP – những khái niệm đóng vai trò chìa khoá để người học có thể tiếp cận và hiểu một cách sâu sắc các nội dung kiến thức cụ thể của LHP ở những chương sau. Các khái niệm cơ bản của LHP được hình thành xoay quanh ba khái niệm lớn: ngành LHP, khoa học LHP và môn học LHP.

Ví dụ đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp

Xem thêm bài viết về “Đối tượng điều chỉnh”

1. Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hiến pháp

Trong quan niệm thông thường, pháp luật được đặt ra để uốn nắn hành vi của con người, bao gồm người dân, các cơ quan, to chức trong xã hội, trong đó có cả các cơ quan nhà nước. Nói cách khác, mục tiêu của pháp luật là thiết lập trật tự thông qua việc uốn nắn hành vi của con người trong xã hội. Tuy nhiên, từ góc độ luật học, người học luật sẽ thấy rằng cách thức mà pháp luật hiện thực hoá mục tiêu này là tác động lên các QHXH mà con người tham gia trong các hoàn cảnh cụ thể. Theo Karl Marx “ bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”! Như vậy, thông qua việc quy định khuôn mẫu cho các QHXH, pháp luật uốn nắn hành vi của con người. Cũng do mối quan hệ liên hoàn này mà QHXH được gọi là “đối tượng điều chỉnh” của pháp luật. Trong tổng thể hệ thống pháp luật của một quốc gia, ví dụ Việt Nam, có nhiều bộ phận pháp luật khác nhau được gọi là các “ngành luật” như ngành LHP, ngành luật hành chính, ngành luật dân sự, ngành luật hình sự, ngành luật tố tụng dân sự, ngành luật tố tụng hình sự v…v..

Mỗi ngành luật được hình thành để điều chỉnh một nhóm QHXH có cùng tính chất, hay cùng “loại” với nhau. Ví dụ, ngành luật dân sự điều chỉnh các QHXH liên quan tới tài sản và nhân thân phi tài sản, ngành luật hình sự điều chỉnh các QHXH liên quan tới tội phạm và hình phạt… Quan điểm luật học của Việt Nam cho rằng đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là cơ sở để hình thành nên ngành luật đó, hay nói cách khác là tạo nên phạm vi các vấn đề mà ngành luật đó điều chỉnh. Đặc điểm của đối tượng điều chỉnh cũng là cơ sở để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác, qua đó hình thành các ngành luật độc lập. Vì vậy, đối tượng điều chỉnh là một vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi ngành luật. Đặc điểm của đối tượng điều chỉnh của một ngành luật luôn có tác động quyết định tới các giá trị đặc trưng của ngành luật đó.

Đối tượng điều chỉnh của ngành LHP là các QHXH nền tảng, cơ bản nhất và quan trọng nhất trong xã hội. Trong quá trình tham gia vào đời sống xã hội, con người thiết lập nhiều QHXH khác nhau, tuy nhiên các QHXH đó không ngang hàng với nhau mà giữa chúng có thứ bậc nhất định. Có những QHXH làm nền tảng cho sự hình thành các QHXH khác, nghĩa là phải xác định được các QHXH đó trước khi thiết lập các QHXH khác. Ví dụ, trong lĩnh vực dân sự, quan hệ sở hữu là một quan hệ nền tảng, nếu không xác định được quan hệ sở hữu thì tất yếu không thiết lập được các giao dịch dân sự có liên quan; trong lĩnh vực hình sự thì quan hệ liên quan tới việc công nhận và bảo hộ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng của con người là một quan hệ nền tảng, nếu không xác định được mối quan hệ này thì sẽ không thiết lập được các quan hệ cụ thể để bảo vệ thân thể và tính mạng của người dân. Đối với nhà nước, các QHXH nền tảng cũng là các QHXH cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình quản lí xã hội bằng pháp luật. Mỗi khi nội dung điều chỉnh các QHXH nền tảng có sự thay đổi thì nội dung điều chỉnh các QHXH khác trong cùng lĩnh vực cũng có sự thay đổi theo. Các QHXH nền tảng này là đối tượng điều chỉnh của ngành LHP. Đối tượng điều chỉnh của ngành LHP có thể được chia thành ba nhóm lớn như sau:

1.1. Nhóm các QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng, chính sách đối ngoại

Trong lĩnh vực chính trị, ngành LHP điều chỉnh các mối quan hệ nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất liên quan tới quốc gia, lãnh thổ, quyền lực nhà nước và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, ví dụ: vấn đề chủ quyền quốc gia, quyền dân tộc cơ bản, bản chất của nhà nước, nguồn gốc của quyền lực nhà nước, hệ thống chính trị v.v.. Khi điều chỉnh các QHXH nền tảng của lĩnh vực chính trị, ngành LHP đồng thời thiết lập nền tảng của chế độ chính trị. Trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng và chính sách đối ngoại, những QHXH nền tảng mà ngành LHP điều chỉnh là những QHXH liên quan tới định hướng phát triển lớn của từng lĩnh vực, ví dụ mô hình phát triển kinh tế, định hướng giá trị phát triển nền văn hoá, khoa học, công nghệ v…v.. Qua việc điều chỉnh các QHXH đó, ngành LHP hình thành các chính sách cơ bản nhất, quan trọng nhất định hướng hoạt động của các cơ quan nhà nước trong từng lĩnh vực.

1.2. Nhóm các QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong lĩnh vực quan hệ giữa nhà nước và người dân, hay có thể gọi là các QHXH xác định quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân

Trong đời sống xã hội, các ngành luật của hệ thống pháp luật Việt Nam quy định cho người dân, trong đó có công dân Việt Nam rất nhiều quyền và nghĩa vụ pháp lí trong các lĩnh vực khác nhau. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân là những quyền và nghĩa vụ nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất của từng lĩnh vực, ví dụ quyền bầu cử, ứng cử trong lĩnh vực chính trị, quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, tự do kinh doanh trong lĩnh vực kinh tế, quyền bất khả xâm phạm nhân phẩm, danh dự, tính mạng, tài sản trong lĩnh vực tự do cá nhân v.v.. Những quyền cơ bản này là nền tảng hình thành các quyền cụ thể của người dân trong từng lĩnh vực, ví dụ quyền được đăng kí kinh doanh, quyền được khởi kiện, quyền được yêu cầu bồi thường dân sự ngoài hợp đồng v.v.. Tập hợp các quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân tạo thành địa vị pháp lí cơ bản của người dân đối với nhà nước.

1.3. Nhóm các QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Đây là các QHXH liên quan tới việc xác định các nguyên tắc tổng thể của bộ máy nhà nước Việt Nam, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước Việt Nam từ trung ương tới địa phương. Đây là nhóm đối tượng điều chỉnh lớn nhất của ngành LHP.

1.4. Tính độc lập của ngành LHP trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Xem xét ở góc độ khái quát, đối tượng điều chỉnh của ngành LHP có những đặc điểm riêng, qua đó khẳng định tính độc lập của ngành LHP trong hệ thống pháp luật Việt Nam, như sau:

Thứ nhất, đối tượng điều chỉnh của ngành LHP hiện diện ở hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tới các lĩnh vực dân sự, hình sự, tụng. Trong khi đó, đối tượng điều chỉnh của hầu hết các ngành luật khác thường nằm trong một lĩnh vực cụ thể, ví dụ luật thương mại, luật môi trường…

Thứ hai, mặc dù trải rộng trên nhiều lĩnh vực song đối tượng điều chỉnh của ngành LHP chỉ bao gồm các QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong từng lĩnh vực. Các QHXH cụ thể hơn của từng lĩnh vực thường là đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác, như ngành luật thương mại, hành chính, dân sự, hình sự, tài chính, lao động v.v.. Thuộc tính nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất của đối tượng điều chỉnh của ngành LHP mang tính trừu tượng cao, song không phải không có tiêu chí để xác định, như các tiêu chí phân tích trên đây.

Thứ ba, đối tượng điều chỉnh của ngành LHP có thể được liệt kê thành các nhóm QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong từng lĩnh vực song sự liệt kê đó không mang tính tuyệt đối. Thuộc tính nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất là yếu tố xác định phạm vi các QHXH là đối tượng điều chỉnh của ngành LHP và việc xác định QHXH nào có thuộc tính này ít nhiều mang tính chủ quan. Chính vì vậy mà phạm vi đối tượng điều chỉnh của ngành LHP có thể thay đổi trong từng thời kì tuỳ thuộc vào nhận thức của giới nghiên cứu khoa học pháp lí và các cơ quan có thẩm quyền trong từng giai đoạn cụ thể. Một QHXH lúc này có thể được coi là nền tảng song lúc khác lại không phải như vậy, và ngược lại. Ví dụ, các quan hệ liên quan tới việc kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các cơ quan hiến định độc lập trong bộ máy nhà nước mới được đưa vào phạm vi đối tượng điều chỉnh của ngành LHP Việt Nam.

2. Phương pháp điều chỉnh của ngành luật hiến pháp

Nếu đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các QHXH mà ngành luật đó tác động lên thì phương pháp điều chỉnh là cách thức mà ngành luật đó, hay trực tiếp hơn là các QPPL của ngành luật đó tác động lên đối tượng điều chỉnh của mình.” Phương pháp điều chỉnh luôn song hành với đối tượng điều chỉnh như hai yếu tố quyết định tới việc xác định một ngành luật độc lập. Tuy nhiên, để phân biệt một ngành luật độc lập, tính đặc thù của phương pháp điều chỉnh có thể không tuyệt đối như tính đặc thù của đối tượng điều chỉnh. Bên cạnh các phương pháp đặc thù của mình, một ngành luật độc lập vẫn có thể sử dụng phương pháp điều chỉnh giống như phương pháp điều chỉnh của ngành luật khác.

Phương pháp điều chỉnh nổi bật nhất của ngành LHP là xác lập những nguyên tắc chung cho các chủ thể khi tham gia vào các mối quan hệ mà ngành luật này điều chỉnh. Ví dụ điển hình về phương pháp này là quy định tại khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quy xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Với quy định này, ngành LHP điều chỉnh một mối quan hệ cơ bản trong lĩnh vực chính trị, đó là quan hệ về bản chất của Nhà nước Việt Nam. Để làm điều đó, ngành LHP không quy định cụ thể những quyền và nghĩa vụ của các chủ thể mà chỉ quy định những tư tưởng, quan điểm định hướng – những nguyên tắc mà các chủ thể – như các cơ quan nhà nước, Đảng Cộng sản, các tổ chức chính trị – xã hội và các chủ thể có liên quan khác phải tôn trọng khi tham gia vào các mối quan hệ cụ thể trong lĩnh vực tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Ngành LHP có rất nhiều quy định áp dụng phương pháp này để tác động lên các QHXH mà chúng điều chỉnh, đặc biệt là các quy định ở Chương I, Chương II và Chương III Hiến pháp năm 2013. Tất nhiên, trong những trường hợp nhất định thì ngành LHP cũng quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cụ thể cho các chủ thể tham gia quan hệ, đặc biệt là các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, hoặc các quy định cụ thể trong lĩnh vực bầu cử… Tuy nhiên, phương pháp chủ đạo vẫn là xác định nguyên tắc cho các chủ thể khi tham gia các mối quan hệ.

Bên cạnh phương pháp đặc thù trên đây, ngành LHP cũng sử dụng một số phương pháp điều chỉnh khác như phương pháp trao quyền, phương pháp cấm và phương pháp bắt buộc.

2.1. Phương pháp trao quyền

Phương pháp trao quyền là phương pháp điều chỉnh mà theo đó pháp luật quy định cho các chủ thể một phạm vi quyền hạn hoặc một quyền cụ thể, tương ứng là nghĩa vụ của các chủ thể khác phải tôn trọng việc thực hiện quyền của các chủ thể được trao quyền. Ngành LHP sử dụng phương pháp này chủ yếu để quy định quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, ví dụ Quốc hội có quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật;’ Chủ tịch nước có quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ v.v.. 3

2.2. Phương pháp cấm

Phương pháp cấm là phương pháp điều chỉnh mà theo đó pháp luật áp đặt nghĩa vụ lên chủ thể tham gia quan hệ không được thực hiện một hành vi cụ thể. Ngành LHP sử dụng phương pháp này chủ yếu để bảo vệ các quyền tự do cơ bản không bị xâm hại bởi các cơ quan, tổ chức hay cá nhân, ví dụ các quy định: “không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý”;^ “không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác5 Bên cạnh đó, phương láp này cũng được sử dụng để điều chỉnh một số mối quan hệ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, ví dụ “việc kéo dài nhiệm kì của một khoá Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh”; “không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đại biểu Quốc hội phạm tội quả tang mà bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định”.2

2.3. Phương pháp bắt buộc

Phương pháp bắt buộc là phương pháp điều chỉnh mà theo đó pháp luật áp đặt một nghĩa vụ xử sự, hay nói cách khác là nghĩa vụ thực hiện một hành vi nhất định lên các chủ thể tham gia quan hệ. Ngành LHP sử dụng phương pháp này để quy định các nghĩa vụ cơ bản của người dân, ví dụ “mọi người . có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”, “công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc”; “mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định’5… Bên cạnh đó, phương pháp này cũng được sử dụng khá phổ biến để quy định về một số khía cạnh hoạt động của các cơ quan nhà nước, ví dụ: “khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc”, “người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kì họp hoặc tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kì họp Quốc hội?

Ba phương pháp trên đây là những phương pháp điều chỉnh mang tính chất quyền uy, nghĩa là các bên phải tuyệt đối tuân thủ phạm vi quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định mà không được tự thoả thuận thêm. Các phương pháp này không những được ngành LHP sử dụng mà còn đồng thời được sử dụng bởi một số ngành luật khác như ngành luật hành chính, luật hình sự, luật tố tụng hình sự v.v..

Xem thêm bài viết về “Phương pháp điều chỉnh”

Nguồn: Fanpage Luật sư Online