Vì sao giai cấp công nhân mang bản chất quốc tế

Mục lục

  • 1 Đặc điểm
  • 2 Quan niệm
  • 3 Sứ mệnh lịch sử
    • 3.1 Quan điểm
    • 3.2 Khái niệm
    • 3.3 Nội dung
    • 3.4 Điều kiện quy định
      • 3.4.1 Về khách quan
      • 3.4.2 Về chủ quan
  • 4 Chủ nghĩa quốc tế
    • 4.1 Khái niệm
    • 4.2 Nội dung
    • 4.3 Cơ sở hình thành
    • 4.4 Chủ thể thực hiện
    • 4.5 Hình thức
  • 5 Chú thích

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa quốc tế vô sản

Chủ nghĩa quốc tế vô sản còn được gọi là chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, hay chủ nghĩa quốc tế XHCN, là những nguyên tắc, phương châm hành động trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Nó được đúc kết thành một hệ thống lý luận và có vị trí rất quan trọng trong học thuyết Mác-Lênin và cũng là nguyên tắc hàng đầu của quan hệ giữa các đảng cộng sản

Có thể khái quát những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa quốc tế vô sản như sau:

Sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và đội ngũ của giai cấp công nhân chính là nội dung cơ bản, nguyên tắc hàng đầu.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sảndo C.Mác và Ph.Ăngghen thay mặt Liên đoàn những người cộng sản viết và được công bố vào tháng 3-1848 có lời kết như lời kêu gọi và cũng là mệnh lệnh hành động của tất cả những người vô sản trên thế giới:Công nhân toàn thế giới hãy liên hiệp lại!Đây là điểm mà những người nghiên cứu về chủ nghĩa Mác đều thống nhất khi đề cập đến nội dung của chủ nghĩa quốc tế vô sản.

V.Lênin: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”

Nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này, chúng ta có thể nhận ra “những tầng bản chất” của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Điển hình là 5 nội dung về sự thống nhất mà giai cấp công nhân toàn thế giới cần đạt tới: thống nhất về lợi ích, thống nhất về tư tưởng, thống nhất về mục tiêu, thống nhất về tổ chức và thống nhất trong hành động.

Chủ nghĩa quốc tế vô sản là ý thức về sự thống nhất lợi ích giai cấp của những người vô sản trên toàn thế giới.

Ý thức về sự thống nhất này xuất phát trước hết từ địa vị kinh tế xã hội của họ. Mác chỉ ra rằng chính phương thức sản xuất đại công nghiệp TBCN là nguyên nhân khách quan của thuộc tính này.

“Nói chung, công nghiệp lớn tạo ra ở khắp nơi những quan hệ như nhau giữa các giai cấp xã hội và do đó xóa bỏ tính chất riêng biệt của những dân tộc khác nhau. Và sau hết, trong khi giai cấp tư sản của mỗi dân tộc còn duy trì những lợi ích dân tộc riêng biệt thì công nghiệp lớn lại tạo ra một giai cấp cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc, một giai cấp không còn tính riêng biệt dân tộc nữa...”[1].

Lênin đã làm rõ vấn đề này thông qua việc phân tích tính chất xã hội hóa ở phạm vi thế giới của công nghiệp hiện đại: “Thực vậy, việc sản xuất cho một thị trường rộng lớn ở trong nước và trên thế giới, việc phát triển mối liên hệ thương nghiệp chặt chẽ về mua bán nguyên liệu và vật liệu phụ giữa các miền trong nước và giữa các nước với nhau, bước tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, việc tập trung sản xuất và nhân khẩu trong những xí nghiệp lớn, truyền thống cổ hủ của chế độ gia trưởng bị phá vỡ, lớp dân cư di động được tạo ra, mức nhu cầu và trình độ văn hóa của công nhân được nâng cao, - tất cả những cái đó đều là những nhân tố của quá trình tư bản chủ nghĩa, quá trình làm cho sản xuất ở trong nước ngày càng được xã hội hóa, và do đấy, làm cho người tham gia sản xuất cũng ngày càng được xã hội hóa”[2].

Sự thống nhất đó cũng làm thành nền tảng cho mối liên hệ bình đẳng về lợi ích, tinh thần trách nhiệm với sự nghiệp chung của giai cấp công nhân ở các quốc gia - dân tộc: “Muốn cho các dân tộc có thể thực sự đoàn kết lại thì họ phải có những lợi ích chung. Muốn cho những lợi ích của họ trở thành lợi ích chung thì những quan hệ sở hữu hiện có phải bị thủ tiêu, bởi lẽ những quan hệ sở hữu hiện có tạo điều kiện cho một số dân tộc này bóc lột một số dân tộc khác; chỉ có giai cấp công nhân là thiết tha với việc thủ tiêu những quan hệ sở hữu hiện tồn. Duy chỉ có mình nó mới có thể làm được việc này. Giai cấp vô sản chiến thắng giai cấp tư sản đồng thời còn có nghĩa là khắc phục tất cả những cuộc xung đột dân tộc và xung đột công nghiệp hiện nay đang sinh ra sự thù hằn giữa các dân tộc. Vì vậy mà thắng lợi của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản đồng thời còn là dấu hiệu giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức”[3].

Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất về tư tưởng trong giai cấp công nhân.

Mác khẳng định: “Sự thống trị của tư bản là có tính chất quốc tế. Chính vì thế, cuộc đấu tranh của công nhân ở tất cả các nước để tự giải phóng, chỉ có thể thành công được, nếu công nhân cùng nhau đấu tranh chống lại tư bản quốc tế”[4].

Sự thống nhất về tư tưởng có được không phải chỉ từ sự đồng cảm của những người cùng bị tư bản bóc lột, mà còn từ sự phát triển trí tuệ, từ cuộc đấu tranh tư tưởng nội bộ thông qua tranh luận. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức củaTuyên ngôn của Đảng Cộng sản, tái bản năm 1890, Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Để đạt tới thắng lợi cuối cùng của những nguyên lý đã đề ra trong “Tuyên ngôn”, Mác chỉ tin tưởng vào sự phát triển trí tuệ của giai cấp công nhân, sự phát triển mà hành động chung và tranh luận chung nhất định sẽ mang lại”[5].

Nó còn xuất hiện từ sự giáo dục lâu dài, chu đáo và kỹ lưỡng của các tổ chức chính trị của giai cấp công nhân. Lênin viết: “... muốn cho cách mạng vô sản thắng lợi thì phải giáo dục lâu dài cho công nhân tinh thần bình đẳng và hữu nghị dân tộcđầy đủ nhất”[6]. Lênin còn nói: “Thắng lợi của cách mạng vô sản thế giới đòi hỏi giai cấp công nhân các nước tiên tiến phải hết sức tin cậy lẫn nhau, đoàn kết anh em hết sức chặt chẽ với nhau và phải hết sức nhất trí trong các hành động cách mạng của họ”[7].

Và sự thống nhất ấy có được, còn từ chiều sâu của nhận thức về nhu cầu phát triển của nhân loại: “... đối lập với xã hội cũ cùng với sự bần cùng về kinh tế và sự điên rồ về chính trị của nó đang xuất hiện một xã hội mới mà nguyên tắc quốc tế phải là hòa bình, bởi vì cùng một nguyên tắc giống nhau ngự trị ở tất cả các dân tộc - lao động!”[8].

Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất về mục tiêu quốc tế của giai cấp công nhân với việc họ trở thành giai cấp đại biểu cho lợi ích của dân tộc.

Đó là sự thống nhất về ý chí và hành động của công nhân. Ăngghen viết: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”, một khẩu hiệu công khai tuyên bố tính chất quốc tế của cuộc đấu tranh, và ngày nay, “giai cấp vô sản chiến đấu ở tất cả các nước đều ghi khẩu hiệu đó trên lá cờ của mình”[9]. Và theo đó: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”[10].

Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân phù hợp cơ bản về lợi ích và với những xu hướng tiến bộ của vấn đề dân tộc hiện đại. TrongLời tựacho lần xuất bảnTuyên ngôn của Đảng Cộng sảnbằng tiếng Ý năm 1893, Ăngghen coi nhiệm vụ giải quyết vấn đề độc lập dân tộc như một tiền đề để giai cấp công nhân thực hiện tốt chủ nghĩa quốc tế: “Không khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc thì về phương diện quốc tế, không thể thực hiện được sự đoàn kết của giai cấp vô sản và sự hợp tác hòa bình và tự giác giữa các dân tộc đó để đạt tới mục đích chung”[11]. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã phát hiện ra sự gắn bó về lợi ích giữa giai cấp công nhân và các dân tộc trong quá trình đấu tranh để tự giải phóng. Từ đó Người đã phát triển khẩu hiệu hành động chiến lược của Tuyên ngôn thành:Giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới hãy đoàn kết lại! “Đối lập với thế giới cũ, cái thế giới của áp bức dân tộc, của sự phân tranh dân tộc hoặc của sự tách biệt giữa các dân tộc, công nhân đưa ra một thế giới mới, một thế giới trong đó những người lao động thuộc mọi dân tộc đoàn kết với nhau, trong đó không có chỗ cho bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào, cũng như không có chỗ cho bất cứ một sự áp bức nào giữa người với người”[12].

Chủ nghĩa quốc tế vô sản không chấp nhận, không điều hòa với các thứ chủ nghĩa dân tộc. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác không thể điều hòa được với chủ nghĩa dân tộc, dù là chủ nghĩa dân tộc “công bằng”, “thuần khiết”, tinh vi và văn minh đến đâu đi nữa. Thay cho mọi chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Mác đưa ra chủ nghĩa quốc tế...”[13] vì “Chúng ta phản đối những mối hằn thù dân tộc, những mối bất hòa dân tộc, sự biệt lập dân tộc. Chúng ta là những người quốc tế chủ nghĩa”[14]. Theo đó, “trước hết cần phải giữ vững tinh thần quốc tế chân chính, tinh thần đó sẽ loại trừ sự xuất hiện của mọi thứ chủ nghĩa sô-vanh...”[15].

Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất nhận thức lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là hạt nhân lý luận - khoa học cho sự đoàn kết và hợp tác hành động của công nhân thế giới. Những nguyên lý lý luận ấy là sự đúc kết từ thực tiễn. “Chủ nghĩa cộng sản nảy sinh ra từ nền đại công nghiệp và những hậu quả của đại công nghiệp, từ sự xuất hiện của thị trường thế giới và cuộc cạnh tranh không thể kìm hãm được do sự xuất hiện của thị trường thế giới gây ra; từ những cuộc khủng hoảng thương nghiệp ngày càng có tính chất phá hoại và tính chất phổ biến và giờ đây đã hoàn toàn trở thành những cuộc khủng hoảng của thị trường thế giới; từ sự hình thành ra giai cấp vô sản và sự tích tụ của tư bản; và từ cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản do đó mà nảy sinh ra”[16].

Nó chỉ ra sứ mệnh giải phóng toàn nhân loại của giai cấp công nhân hiện đại: “... lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp đó hiện nay đã phát triển tới giai đoạn trong đó giai cấp bị bóc lột và bị áp bức, tức là giai cấp vô sản, không còn có thể tự giải phóng khỏi ách của giai cấp bóc lột và áp bức mình, tức là giai cấp tư sản, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn xã hội khỏi ách bóc lột, áp bức, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp”[17].

Lý luận về giai cấp công nhân còn xuất phát từ kinh nghiệm đấu tranh chính trị. Mác viết: “... chúng ta hãy nhớ một nguyên tắc cơ bản của Quốc tế: sự đoàn kết. Chúng ta sẽ đạt được mục đích vĩ đại mà chúng ta đang hướng tới, nếu chúng ta củng cố vững chắc nguyên tắc đầy sức sống ấy trong tất cả các công nhân ở tất cả các nước. Cách mạng là phải đoàn kết, kinh nghiệm lớn lao của Công xã Pa-ri đã dạy chúng ta như thế; Công xã Pa-ri sở dĩ thất bại vì tất cả những trung tâm chính như Béc-lin, Ma-đrít,v.v., đã không đồng thời bùng nổ một phong trào cách mạng to lớn tương xứng với trình độ đấu tranh cao của giai cấp vô sản Pa-ri”[18].

Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự phối hợp hành động cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước trên toàn thế giới.

Tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân là biểu hiện đầu tiên về sự phối hợp hành động của giai cấp vô sản. Tổ chức ấy được sinh ra từ giác ngộ về giai cấp. Việc hình thành một trung tâm quốc tế để lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước, từ đó thúc đẩy sự ra đời của chính đảng của giai cấp công nhân ở từng nước là sứ mệnh hàng đầu của các tổ chức quốc tế của những người cộng sản. “Liên đoàn những người cộng sản” là tổ chức đầu tiên được thành lập trên cơ sở của sự giác ngộ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác và Ăngghen xây dựng.Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản[3-1848] được coi là “bản khai sinh” của tổ chức quốc tế đầu tiên này. Những nguyên lý mà Mác và Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Từ đó đến nay, về mặt tổ chức quốc tế, giai cấp công nhân và những người cộng sản trên toàn thế giới đã có nhiều sáng tạo về hình thức tổ chức: từ các tổ chức như Quốc tế I [1864 - 1889], Quốc tế II [1889 - 1914], Quốc tế III [Quốc tế cộng sản 1919 - 1943] đến các hình thức tổ chức quốc tế tương đương như Cục thông tin quốc tế, Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân quốc tế, Diễn đàn thường niên của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế v.v.. Mác, Ăngghen và Lênin là những lãnh tụ đã dành nhiều công sức, trí tuệ cho việc xây dựng những tổ chức quốc tế đầu tiên và định ra cương lĩnh chiến đấu, lý luận chỉ đạo cho phong trào công nhân thế giới - biểu hiện sinh động chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Sự phối hợp hành động cách mạng có nhiều biểu hiện, gần gũi nhất là sự ủng hộ, giúp đỡ, phối hợp hành động giữa giai cấp công nhân của các dân tộc đã được đoàn kết lại. Lênin từng trao nhiệm vụ cho Quốc tế III: “Trong tất cả các nước thuộc địa và các nước lạc hậu, không những chúng ta phải đào tạo những cán bộ độc lập, xây dựng nên những tổ chức đảng, không những phải tiến hành tuyên truyền ngay từ giờ cho việc tổ chức các Xô-viết nông dân và cố gắng làm cho các Xô-viết đó phù hợp với những hoàn cảnh tiền tư bản chủ nghĩa, mà Quốc tế cộng sản còn phải xác định và chứng minh trên lý luận cho một nguyên tắc là: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô-viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trái qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[19].

Sự phối hợp hành động ấy còn bao gồm cả sự kết hợp cuộc cách mạng của giai cấp công nhân chính quốc với các phong trào dân tộc, dân chủ. “Cuộc cách mạng xã hội chỉ có thể tiến hành được dưới hình thức một thời đại kết hợp cuộc nội chiến của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong các nước tiên tiến, vớicả một loạtphong trào dân chủ và cách mạng, kể cả những phong trào giải phóng dân tộc trong các nước chưa phát triển, lạc hậu và bị áp bức”[20].

Sự thống nhất, phối hợp hành động của giai cấp vô sản ở các nước cũng chấp nhận những sự khác biệt về chi tiết khi vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa quốc tế. Lênin từng nhắc nhở: “Chừng nào mà giữa các dân tộc và các nước vẫn còn những sự khác nhau về dân tộc và về chế độ nhà nước - những sự khác nhau này, ngay cả khi nền chuyên chính của giai cấp vô sản đã được thiết lập trên phạm vi toàn thế giới, cũng vẫn còn tồn tại trong một thời gian lâu, rất lâu, - thì chừng đó, sự thống nhất sách lược quốc tế của phong trào công nhân cộng sản ở tất cả các nước vẫn không đòi hỏi phải xóa bỏ mọi mầu sắc khác nhau..., mà nó đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắccơ bảncủa chủ nghĩa cộng sản. [Chính quyền xô-viết và chuyên chính vô sản] sao cho những nguyên tắc ấy đượccải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước - dân tộc”[21].

Như vậy, chủ nghĩa quốc tế vô sản là một hệ thống lý luận chỉ đạo giai cấp công nhân quốc tế về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động trong quá trình cùng nhau thực hiện sứ mệnh mà lịch sử trao cho: đấu tranh xóa bỏ CNTB và xây dựng thành công CNXH, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.

Cơ sở kinh tế xã hội của chủ nghĩa quốc tế vô sản xuất phát từ tính chất xã hội hóa cao của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống nhất toàn thể giai cấp công nhân thế giới ở nhiều điểm: sản xuất công nghiệp mang tính chất liên hiệp, lao động của công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; CNTB, chủ nghĩa đế quốc là những thế lực quốc tế đã liên minh với nhau để bóc lột và chống lại họ; đoàn kết quốc tế và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là kinh nghiệm chính trị và là quy luật đấu tranh cách mạng; quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cũng đòi hỏi phải có tư duy và hành động ở tầm mức thế giới...

Mặt đối lập với chủ nghĩa quốc tế vô sản là chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, là quan niệm biệt phái về tổ chức và hành động, sự chia rẽ, sự bất đồng về quan điểm giữa các đảng do xuất phát từ lợi ích cục bộ, thiển cận... Đây cũng là những điểm yếu, mặt hạn chế xuất hiện từ phong trào cộng sản - công nhân quốc tế và đã bị giai cấp tư sản lợi dụng, gây nhiều trở ngại. Song cũng đã nhiều lần, sức mạnh tự thân của quy luật khách quan và ý chí đoàn kết của giai cấp công nhân đã tái lập lại chủ nghĩa quốc tế vô sản ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng hơn trong phong trào công nhân thế giới.

Trong bối cảnh chính trị mới của thế giới hiện nay, chủ nghĩa quốc tế vô sản vẫn là quy luật vận động phát triển và thắng lợi của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Dĩ nhiên, cần thấy rằng, đã và đang xuất hiện nhiều thách thức, khó khăn mới từ chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc, từ “chủ nghĩa tự do mới” và chủ nghĩa quốc gia - dân tộc hiện đại... Thực tế đó đòi hỏi mỗi đảng cộng sản và toàn thể phong trào công nhân thế giới cần phải nỗ lực, đoàn kết và sáng tạo để vượt qua. Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa quốc tế vô sản trong điều kiện mới vẫn là phương châm hành động của chúng ta.

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2012

[1] C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.87-88.

[2] V.I.Lênin:Toàn tập, t.3, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr.694.

[3],[10] C.Mác và Ph.Ăngghen: Sđd, t.4, tr.526-527, 611.

[4] V.I.Lênin: Sđd, t.2, tr.115.

[5],[11],[16],[17] C.Mác và Ph.Ăngghen:Tuyển tập, t.I, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.524, 534, 432-433, 517.

[6] V.I.Lênin: Sđd, t.26, tr.132.

[7] Sđd,t.38, tr.132.

[8],[15] C.Mác và Ph.Ăngghen:Tuyển tập, t.III, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.641, 634.

[9] Sđd,t.VI, tr.340.

[12] V.I.Lênin: Sđd, t.23, tr.194.

[13] Sđd, t.24, tr.167.

[14] Sđd, t.40, tr.49.

[18] C.Mác và Ph.Ăngghen:Tuyển tập, t.IV, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1980, tr.212.

[19],[21] V.I.Lênin: Sđd, t.41, tr.294-295, 96.

[20] Sđd, t.30, tr.146.

PGS,TS NGUYỄN VIẾT THẢO

PGS,TS NGUYỄN AN NINH

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

Tạp chí Lý luận Chính trị

Bản chất cách mạng của giai cấp công nhân qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp

Lâm Quốc Tuấn - Đặng Viết Đạt[Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh]

Đánh giá tác giả:

06:05 thứ sáu ngày 01/05/2020

Tăng kích thước font chữ Giảm kích thước font chữ In bài viết Gửi bài viết

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết về Cách mạng công nghiệp 4.0 Thích ứng để phát triển Bài 4: Mốc son chói lọi của thời đại

[HNM] - Nhân loại đã và đang trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp. Qua mỗi lần như vậy, giai cấp công nhân có những biến đổi sâu sắc. Như C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá: “Giai cấp công nhân là người đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ với mức độ xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao”, vì vậy, bản chất cách mạng của giai cấp công nhân tiếp tục được khẳng định trong Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.

1. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản [1848], C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”. Nghĩa là, các nền đại công nghiệp sản sinh và phát triển giai cấp vô sản - giai cấp công nhân hiện đại. Tuy nhiên, cũng chính các cuộc cách mạng công nghiệp đã và đang làm thay đổi cấu trúc của giai cấp công nhân.

Peter Drucker [1909-2005] - người được coi là cha đẻ của ngành Quản trị kinh doanh hiện đại, đã viết: “Không có giai cấp nào trong lịch sử lại tăng nhanh hơn "công nhân cổ xanh" và không có giai cấp nào trong lịch sử lại giảm nhanh hơn giai cấp đó”. Sự suy giảm về số lượng của giai cấp công nhân, đặc biệt là "công nhân cổ xanh" bắt nguồn từ sự suy giảm của lực lượng lao động sản xuất hàng hóa truyền thống. Đó là chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự thay thế sức lao động con người bằng máy móc.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất [1784-1871] đã làm lay chuyển tận gốc trật tự kinh tế cũ tồn tại và phát triển hàng trăm năm trước đó. Chính sự phát triển vượt bậc của thương mại và công nghiệp đã làm sụp đổ từng mảng lớn hình thái kinh tế - xã hội phong kiến. Tự do hóa thương mại, tự do hóa sản xuất và đặc biệt là tự do hóa lao động đã tạo ra những đô thị công nghiệp khổng lồ, kéo theo là những làn sóng chuyển dịch dân cư quy mô lớn từ khu vực nông thôn ra thành thị, tạo ra sự phát triển không ngừng của giai cấp công nhân. Đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai [1871-1914] với dây chuyền sản xuất hàng loạt tiếp tục đẩy nhanh tiến trình phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng trên toàn thế giới.

Nhưng rồi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba [1969-2000] với nền sản xuất tự động hóa dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và internet đã đẩy mạnh sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ chủ yếu sản xuất công nghiệp sang phát triển dịch vụ và thương mại. Và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư [còn gọi là Cách mạng công nghiệp 4.0], diễn ra từ những năm 2000, dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất [trí tuệ nhân tạo - AI, công nghệ in 3D, công nghệsinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, robot...], đang làm biến đổi mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu.

Giáo sư Klaus Schwab [người sáng lập và là Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF] đã khẳng định: “Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua”. Vậy những nguyên nhân khách quan này liệu có làm thay đổi bản chất cách mạng của giai cấp công nhân?

Trên thực tế, chỉ những công nhân làm việc trực tiếp trong các dây chuyền sản xuất công nghiệp giảm sút về số lượng, nhưng những người lao động trong các ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp lại tăng. Do đó, số lượng giai cấp công nhân không hề suy giảm bởi những lao động được trả công ăn lương trong nhiều ngành dịch vụ vẫn là công nhân, theo nghĩa họ phải bán sức lao động để kiếm thu nhập vàlà người trực tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp với mức độ xã hội hóa ngày càng cao.

Như vậy, các cuộc cách mạng công nghiệp không làm giảm số lượng và tỷ trọng giai cấp công nhân trong cơ cấu lao động của nền kinh tế nhưng chắc chắn đã làm thay đổi sâu sắc thành phần, cơ cấu của giai cấp công nhân. Nếu như đa số công nhân thế kỷ XVIII, XIX là công nhân các ngành công nghiệp, mà chủ yếu là lao động cơ khí, thì nay đã xuất hiện công nhân của những ngành ứng dụng công nghệ cao. Tỷ trọng của đội ngũ công nhân trong nền công nghiệp tự động hóa, trí thức hóa ngày càng gia tăng. Có thể thấy rõ, quan điểm Mác xít cho rằng “giai cấp công nhân là người đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ với mức độ xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao” vẫn giữ nguyên giá trị.

2. Phải khẳng định rằng, các cuộc cách mạng công nghiệp không làm thay đổi bản chất của giai cấp công nhân mà tiếp tục củng cố và làm gia tăng các đặc tính này. Công nhân vẫn luôn là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, nắm giữ và vận dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại trong lao động sản xuất, trở thành lực lượng đi đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ có máy móc được kết nối với nhau mà còn tạo ra các “chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu”, “chuỗi giá trị toàn cầu” với các nhà máy thông minh, trong đó các hệ thống ảo và thực tế [Virtual Reality System] có thể phối hợp một cách linh hoạt. Các nhà máy, xí nghiệp chuyển sang sản xuất tự động hóa, với sự trợ giúp của robot, khiến cho trình độ, kỹ năng của giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao. Cũng từ đây, tính kỷ luật, liênkết, xã hội hóa ngày một gia tăng bởi phân công lao động trong các dây chuyền sản xuất công nghiệp không còn là phân công giữa các bộ phận trong nhà máy, xí nghiệp mà là phân công lao động trong phạm vi quốc gia và quốc tế với các dây chuyền và chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu. Điều này làm cho tính tổ chức kỷ luật, liên kết, xã hội hóa và tiên phong đi đầu trong các cuộc đấu tranh vì những mục tiêu xã hội tốt đẹp của giai cấp công nhân ngày càng cao, nghĩa là bản chất cách mạng của giai cấp công nhân ngày càng thêm sâu sắc.

Nếu giai cấp công nhân trong các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây đã đứng lên kêu gọi và đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác đấu tranh để cải thiện tiền lương, cải thiện điều kiện lao động hay đi đầu trong các phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi áp bức bất công, giành tự do, độc lập cho quốc giadân tộc, thì trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, họ vẫn tiếp tục đấu tranh cho các quyền tự do cơ bản của con người, đấu tranh để chống lại áp bức, bóc lột, bất công, qua đó thúc đẩy công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.

Những mục tiêu cao đẹp đó sẽ không tự động đạt được hay đi liền với các cuộc cách mạng công nghiệp, bởi các cuộc cách mạng công nghiệp một mặt đã đem lại cho con người điều kiện sống tiện nghi hơn, hiện đại hơn nhưng cũng tạo ra nhiều nguy cơ, thách thức trong xã hội, như: Phân hóa, phân tầng xã hội; bất bình đẳng xã hội; con người đối mặt với nhiều rủi ro về kinh tế, xã hội và môi trường. Đặc biệt, Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể dẫn đến tình trạng bất cân xứng về quyền lực, ưu thế quyền lực thuộc về các cá nhân, tổ chức, quốc gia hiểu biết và kiểm soát công nghệ.

Vì vậy, xã hội hiện đại ngày nay vẫn cần lực lượng lao động cấp tiến để quản lý, thúc đẩy sáng tạo và đấu tranh cho những mục tiêu cao đẹp, đó là xây dựng một xã hội trong đó các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người đều được tôn trọng và bảo đảm. Lực lượng lãnh đạo đó không ai khác chính là giai cấp công nhân, những người lao động được tôi luyện từ nền sản xuất đại công nghiệp hiện đại.

Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiền đề mà nó tạo ra sẽ cho thấy những bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, đều rất quan tâm và quyết tâm mạnh mẽ hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là một con đường để phát triển rút ngắn, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Không ai khác, chính giai cấp công nhân Việt Nam sẽ đi đầu trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Sát cánh cùng họ là các giai cấp, tầng lớp khác sẽ cùng làm nên một hình ảnh mới của Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Bản chất cách mạng của giai cấp công nhân qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp Đóng Tự trình chiếu Dừng trình chiếu

Tin liên quan Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết về Cách mạng công nghiệp 4.0

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số50/NQ-CPchương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-9-2019 …

Tin liên quan Thích ứng để phát triển

[HNM] - Với chủ đề “Đọc sách, nâng cao trí tuệ, vượt qua nỗi lo dịch bệnh”, Hội sách trực tuyến quốc gia năm 2020 chào mừng Ngày …

Tin liên quan Bài 4: Mốc son chói lọi của thời đại

[HNM] - Đòi hỏi ra đời của một chính đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng ở nước ta là tất yếu của lịch sử. Trước tất yếu …

Chia sẻ Facebook Chia sẻ Google Plus Chia sẻ Twitter Chia sẻ Zalo Tới khu vực bình luận In bài viết Gửi bài viết

Từ khóa: bản chất cách mạng giai cấp công nhân cách mạng công nghiệp

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và ý nghĩa thời đại

Thứ sáu - 23/07/2021 14:36 221.903 0

[TG] - Cách đây 173 năm, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời đánh dấu bước phát triển trong lịch sử hình thành chủ nghĩa Mác. Một trong những quan điểm nổi bật của tác phẩm là C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải một cách thuyết phục sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là “vũ khí lý luận” sắc bén để giai cấp công nhân có thể bước lên vũ đài chính trị và khẳng định vai trò to lớn của mình trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Cho đến nay, quan điểm này vẫn có ý nghĩa to lớn, nhất là cung cấp cơ sở lý luận vững chắc để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

C.Mác và Ph.Ăngghen [Ảnh minh họa]


1.Ngày 24/2/1848,“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”[gọi tắt làTuyên ngôn] - một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử quan trọng do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo theo sự ủy nhiệm của Liên đoàn những người cộng sản [một tổ chức công nhân quốc tế] lần đầu tiên được xuất bản tại Luân Đôn [Anh]. Trong phần mở đầu, khi nói về bối cảnh ra đời củaTuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ nỗi sợ hãi và sự căm thù của các thế lực trong thế giới tư bản chủ nghĩa [TBCN] đối với phong trào cộng sản đang hình thành và ngày một phát triển sâu rộng bằng một lời khẳng định rất cô đọng: Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu.“Bóng ma” ấy đã khiến cho các thế lực trong thế giới tư bản phải “liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử”. Chính vì vậy, “hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”[1].

Trong bối cảnh đó, để giúp cho giai cấp vô sản toàn thế giới và các chính đảng nhận thức rõ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử và mục đích cao cả trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản [CNTB], đồng thời thiết lập địa vị thống trị của mình và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phác họa nên một bức tranh sinh động về quá trình hình thành và phát triển của CNTB, bóc trần những mâu thuẫn nội tại, vốn có của nó, chỉ rõ mức độ đối kháng giai cấp ngày càng sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Không chỉ vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen còn khẳng định: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”; ở bất cứ nơi nào mà giai cấp tư sản thiết lập được quyền thống trị chính trị của mình, nó đều “đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên”, làm tiêu tan “tất cả những quan hệ xã hội cứng đờ và hoen rỉ, với cả tràng những quan niệm và tư tưởng vốn được tôn sùng từ nghìn xưa đi kèm những quan hệ ấy”. Nó “làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới”, những thành quả hoạt động tinh thần của một dân tộc “trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc” và “lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh”. Hơn nữa, giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ, “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”[2].

Đánh giá cao những thành tựu và đóng góp ấy của CNTB và giai cấp tư sản, song với cái nhìn biện chứng khách quan về tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, trongTuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã khẳng định rằng, giờ đây, giống như những gì đã xảy ra với các phương thức sản xuất trước kia, quan hệ sản xuất TBCN đã không còn phù hợp với lực lượng sản xuất hùng mạnh do nó tạo ra nữa, nó bắt đầu kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất này. TrongTuyên ngôn, khi chứng minh sự tất yếu phải diệt vong của CNTB và khẳng định “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, điều đó sẽ không tự động diễn ra. Vai trò kẻ đào huyệt chôn chế độ tư bản đã trở nên lỗi thời đó sẽ phải do một giai cấp nhất định thực hiện - giai cấp vô sản, giai cấp do chính xã hội tư bản sản sinh ra: “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, nhữngngười vô sản”[3]. Theo các ông, không một giai cấp thống trị đã lỗi thời nào lại tự nguyện rút lui khỏi vũ đài lịch sử và do vậy, việc lật đổ giai cấp tư sản với tư cách một giai cấp thống trị đã hết vai trò lịch sử chỉ có thể thành công bởi một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt - cuộc cách mạng vô sản do chính giai cấp vô sản cách mạng và chính đảng của nó thực hiện.

Một trong những điểm nhấn quan trong củaTuyên ngônlà C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiến hành luận chứng cho sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản. Theo các ông, trong thời đại ngày nay, với tư cách là “sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”, giai cấp vô sản không chỉ trở thành “giai cấp đang nắm tương lai trong tay”, mà còn là “giai cấp thực sự cách mạng” nhất và chính nền sản xuất TBCN đã đưa họ lên địa vị đó, lên vũ đài lịch sử với tư cách lực lượng cách mạng hùng hậu và không điều hòa với toàn bộ chế độ lao động làm thuê. Sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản phải do chính giai cấp vô sản thực hiện. Song, giai cấp vô sản tiến hành cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB không chỉ vì sự nghiệp giải phóng mình, mà còn thực hiện một sứ mệnh cao cả nữa, mang đậm tính nhân văn cộng sản chủ nghĩa là giải phóng toàn thể nhân loại cần lao vĩnh viễn thoát khỏi mọi ách áp bức, bóc lột.

Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB, giai cấp vô sản cần phải có phương pháp cách mạng đúng đắn và thực thi những giải pháp tình thế một cách hợp lý, đúng đắn, “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”[4]. Với quyền thống trị chính trị của mình, giai cấp vô sản, theo các ông, cần phải từng bước giành lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập trung tất cả các công cụ sản xuất chủ yếu vào tay nhà nước vô sản để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Không chỉ thế, các ông còn cho rằng, thông qua con đường đấu tranh cách mạng, việc giai cấp vô sản “tự tổ chức thành giai cấp”, “trở thành giai cấp thống trị” và thiết lập chính quyền vô sản - một chính quyền dân chủ do chính ngay bản chất của nó, thể hiện lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân và dựa vào sự ủng hộ của nhân dân - phải được coi là vấn đề đầu tiên, then chốt và mang ý nghĩa quyết định trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB, xây dựng thành công chế độ xã hội mới.

Ngay khi C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra tư tưởng này đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của các học giả tư sản và giai cấp tư sản. Họ cho rằng những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là “không tưởng”, “xuất phát từ sự tư biện chủ quan”[5]. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã cho thấy, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử củaTuyên ngônthực sự là “vũ khí lý luận” sắc bén để giai cấp vô sản từng bước bước lên vũ đài chính trị và khẳng định sứ mệnh lịch sử của mình.

2.Mặc dù đã ra đời cách đây 173 năm nhưngTuyên ngônvẫn thể hiện ý nghĩa thời đại rất sâu sắc, đặc biệt trong việc đấu tranh phản bác với các quan điểm sai trái, thù địch về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay.

Thời gian qua, có ba xu hướng phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:

Thứ nhất, gần đây, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ [KHCN] hiện đại, các học giả của thuyết kỹ trị cho rằng, sự xuất hiện ngày càng nhiều “robot thông minh”, “trí tuệ nhân tạo” khiến người máy đang dần thay thế con người. Điều đó khiến người lao động vốn từ chỗ là chủ thể của quá trình sản xuất đang bị gạt ra bên lề quá trình sản xuất ấy, trở thành nhân tố đóng vai trò thứ yếu. Biểu hiện của sự thay đổi này là thay về cần đến nhiều nhân công để lao động, sản xuất thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp chỉ cần ít nhân công. Thay vì trả lương cho nhân công, các doanh nghiệp đầu tư vào máy móc, công nghệ. Do đó, các nhà kỹ trị cho rằng đã đến lúc cần xem xét lại quan điểm của C.Mác về vai trò, vị trí trung tâm, có ý nghĩa quyết định của người lao động trong hoạt động sản xuất vật chất. Theo quan điểm của C.Mác, người lao động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không ai khác chính là giai cấp công nhân, giai cấp vô sản nên mục đích sâu xa của quan điểm này là nhằm phủ nhận vai trò của giai cấp công nhân.

Thứ hai, có một số luận điệu cho rằng, giai cấp công nhân đã hoàn thành sứ mệnh của mình trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, hội nhập, thời kỳ của các cuộc cách mạng KHCN, vai trò đó phải thuộc về đội ngũ trí thức, những nhà khoa học. Chỉ có những nhà khoa học, trí thức mới có thể làm chủ được xã hội, đưa đất nước phát triển hiện đại, văn minh.

Thứ ba,có quan điểm cho rằng, trong xã hội tư bản hiện đại, đời sống của giai cấp công nhân không còn cơ cực như trước. Ở nhiều công ty, người công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu nên họ không còn là giai cấp vô sản nữa. Vì thế, mẫu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản cũng không còn mang tính chất đối kháng như trước đây. Vì thế, giai cấp công nhân cũng không còn cần đến sứ mệnh lịch sử của mình là “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” như C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng khẳng định trongTuyên ngôn.

Có thể nhận thấy, cả ba xu hướng trên đều căn cứ vào sự phát triển của xã hội hiện đại mà thời của C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có được để phủ nhận tính đúng đắn trong quan điểm về vai trò quyết định của người lao động trong hoạt động sản xuất vật chất cũng như sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Không thể phủ nhận được ngày nay những thành tựu củaKHCNhiện đại với sự ra đời của người máy đã thay thế không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp, mà còn có thể thay thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người lao động trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá trình sản xuất. Về thực chất,KHCNtrước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ của con người. Do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển củaKHCN, đồng thời quyết định việc sử dụngKHCNvào sản xuất theo mục đích của mình. Thực tế cho thấy, kỹ thuật, công nghệ hiện đại dù năng động và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con người làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của con người. Do đó, dù trí tuệ nhân tạo dẫu được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và người máy công nghiệp. Vì vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại củaKHCNhiện đại, người lao động hay nói cụ thể hơn là giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò quyết định hoạt động sản xuất vật chất.

Ngoài ra, ngày nay, mặc dù tầng lớp trí thức đang gia tăng nhanh chóng về số lượng, ngay cả bản thân giai cấp công nhân cũng diễn ra xu hướng trí thức hóa ngày càng mạnh mẽ nhưng điều đó không có nghĩa là tầng lớp trí thức thay thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. C.Mác, Ph.Ăngghen và cả V.I.Lênin sau này cũng nhận thấy vai trò to lớn của tầng lớptrí thức trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân nhưng do phương thức lao động quy định và vai trò trong hệ thống sản xuất xã hội, tầng lớp trí thức không có hệ tư tưởng nên không thể giữ vai trò lãnh đạo xã hội. V.I.Lênin cho rằng: “So với giai cấp công nhân thì giới trí thức bao giờ cũng có nhiều tính chất cá nhân chủ nghĩa hơn, ấy là do những điều kiện cơ bản của đời sống và công tác của họ không cho phép họ thống nhất lực lượng một cách trực tiếp và rộng rãi, không cho họ được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ chức”[6].

Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, trong giai đoạn đầu của cách mạng vô sản, phần lớn những người trí thức đứng về phía giai cấp tư sản, bảo vệ những quan điểm, lập trường tư sản, phản ánh những lợi ích của giai cấp tư sản. Cùng với thực tiễn đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, tầng lớp trí thức ngày càng nhận rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và tìm thấy lợi ích của mình trong cuộc đấu tranh chung đó. Vì thế, ngày càng nhiều trí thức đi theo giai cấp công nhân, ủng hộ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.Tuy nhiên,trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà là một tầng lớp [đội ngũ] trung gian trong xã hội, hoạt động trong lĩnh vực lao động trí óc [sản xuất tinh thần là chủ yếu], trí thức không có hệ tư tưởng độc lập mà phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp mà họ phục vụ. Đúng như V.I.Lênin nhận xét: “Nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi”[7].

Hơn nữa, trong lòng xã hội tư bản, đời sống của người lao động tuy có được cải thiện, nhưng số người bị “hất” ra hè phố, số người nghèo khổ vẫn ngày càng tăng. Sự phát triển của các tập đoàn tư bản, các công ty tư bản xuyên quốc gia cùng sự bòn rút tài nguyên và bóc lột nhân dân nhiều nước thuộc thế giới thứ ba; các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia hay nội chiến do các nước đế quốc phát động là nguyên nhân chủ yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe dọa chết đói, 1,6 tỷ người sống trong cảnh khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người mù chữ[8]. Đó là một bằng chứng không gì thuyết phục hơn để khẳng định CNTB sẽ không bao giờ thay đổi bản chất của họ nên giai cấp công nhân cũng sẽ vẫn còn sứ mệnh lịch sử to lớn trong việc đấu tranh giải phóng giai cấp mình và tiến tới giải phóng toàn xã hội.

Trong những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng gia tăng về số lượng, trưởng thành về trình độ, ý thức, kỹ năng... Giai cấp công nhân nước ta lãnh đạo xã hội qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Tuy nhiên, nhìn chung, trình độ, tay nghề của công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, gặp nhiều khó khăn khi thích ứng với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Do đó, để giai cấp công nhân nước ta tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, đúng như Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định, cần phải“phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh, trình độ, kỹ năng nhằm thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[9].

Cho đến nay, quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân qua“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Nó không chỉ là vũ khí lý luận sắc bén cho giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng giai cấp mình và toàn xã hội, mà hiện nay, nó còn là cơ sở lý luận quan trọng để chúng ta đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhìn lại những quan điểm của các nhà kinh điển để chúng ta càng thêm vững tin vào con đường đã chọn, vững tin vào giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin - cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

TS. Lê Thị Chiên
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn tin: tuyengiao.vn

Video liên quan

Chủ Đề