Đật ngón tay sau lưng quặp vào nghĩa là gì năm 2024
Bong gân là tổn thương ở dây chằng; căng cơ là tổn thương trong cơ. Tổn thương (đứt) cũng có thể xảy ra đối với gân. Show Bên cạnh bong gân, căng cơ, và tổn thương gân, các tổn thương cơ xương còn bao gồm Tổn thương cơ xương khớp khá phổ biến và rất khác nhau về cơ chế, mức độ nghiêm trọng và điều trị. Các chi, cột sống và xương chậu có thể bị ảnh hưởng. Tổn thương dây chằng hoặc cơ có thể được phân loại thành
Đứt gân có thể bán phần hoặc hoàn toàn. Với tổn thương hoàn toàn, thường mất vận động do cơ chi phối. Tổn thương bán phần có thể là do một chấn thương riêng lẻ (ví dụ chấn thương xuyên thấu) hoặc hoạt động lặp đi lặp lại (mạn tính, gây ra bệnh về gân). Vận động thường không thay đổi, nhưng tổn thương bán phần có thể tiến triển thành tổn thương hoàn toàn, đặc biệt khi có lực tác động đáng kể hoặc lặp đi lặp lại. Nhiều tổn thương bán phần dây chằng, gân hoặc cơ hồi phục tự nhiên. Tổn thương hoàn toàn thường yêu cầu phẫu thuật để hồi phục về giải phẫu và chức năng. Tiên lượng và điều trị thay đổi rất nhiều tùy theo vị trí và mức độ nghiêm trọng của tổn thương. Các biến chứng nghiêm trọng do chấn thương gân, dây chằng không thường gặp tuy nhiên lại có thể dẫn đến mất chức năng chi thể vĩnh viễn. Các biến chứng cấp tính (tổn thương liên quan) bao gồm:
Các biến chứng muộn bao gồm:
Chẩn đoán bong gân, căng cơ, tổn thương gân nên bao gồm hỏi bệnh sử chi tiết và thăm khám lâm sàng mới đủ chẩn đoán. Bệnh nhân cần được kiểm tra xem có gãy xương và trật khớp cũng như tổn thương dây chằng, gân và cơ; đôi khi một phần của đánh giá tổn thương này được trì hoãn cho đến khi loại trừ được gãy xương. Các khớp ở trên và dưới khớp bị tổn thương cũng cần được kiểm tra. Bệnh sử tập trung vào
Các bác sĩ lâm sàng cũng nên hỏi về việc sử dụng các loại thuốc (ví dụ: fluoroquinolones, corticosteroid) làm tăng nguy cơ rách gân. Cơ chế (ví dụ, hướng và cường độ của lực) có thể gợi ý kiểu chấn thương. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không nhớ hoặc không thể mô tả chính xác cơ chế chấn thương. Nếu bệnh nhân cho biết có biến dạng đã được xử trí trước khi được thăm khám y khoa, biến dạng đó được nhận định là biến dạng thực sự đã thuyên giảm tự nhiên. Tiếng kêu tại khớp tại thời điểm bị thương có thể là dấu hiệu của tổn thương dây chằng hoặc gân (hoặc gãy xương). Tổn thương dây chằng nặng thường gây đau ngay lập tức; đau xuất hiện sau vài giờ cho đến vài ngày sau chấn thương gợi ý tổn thương nhẹ. Thăm khám bao gồm
Nếu co cơ và đau làm hạn chế thăm khám thực thể (đặc biệt là các nghiệm pháp thăm khám), thăm khám sẽ dễ dàng hơn sau khi bệnh nhân được dùng thuốc giảm đau toàn thân hoặc gây tê tại chỗ. Hoặc vùng tổn thương có thể được bất động cho đến khi bớt co cơ và giảm đau, thường là sau vài ngày, và sau đó bệnh nhân được kiểm tra lại. Biến dạng gợi ý đến trật khớp, bán trật (di lệch một phần trong số các xương tạo lên khớp), hoặc gãy xương. Sưng thường là dấu hiệu tổn thương hệ vận động nhưng có thể cần vài giờ để tiến triển. Nếu sưng không xuất hiện trong thời gian này, không nghĩ đến có đứt dây chằng. Ấn đau đi kèm với gần như tất cả các tổn thương, và đối với nhiều bệnh nhân, chạm vào bất cứ nơi nào xung quanh vùng tổn thương đều gây khó chịu. Tuy nhiên, sự gia tăng đáng kể mức độ ấn đau ở một vùng khu trú (điểm đau) gợi ý đến bong gân (hoặc gãy xương). Ấn đau tại chỗ bám dây chằng và cảm giác đau khi khớp bị ảnh hưởng cho thấy có tổn thương. Với rách gân hoặc cơ hoàn toàn, một vùng khuyết có thể sờ thấy rõ nơi cấu trúc bị ảnh hưởng. Mất vững khớp nhiều gợi ý đến đứt dây chằng rất nặng (hoặc trật khớp, cái có thể tự thuyên giảm). Các kết quả có thể giúp phân biệt đứt dây chằng độ 2 và độ 3:
Nếu cơ còn co nhiều dù đã sử dụng thuốc giảm đau hoặc thuốc gây tê, nên khám lại vài ngày sau đó, khi bớt co cơ. Một số trường hợp đứt gân bán phần ban đầu khó phát hiện trên lâm sàng vì chức năng không thay đổi. Bất kỳ dấu hiệu nào sau đây đều gợi ý đến đứt gân bán phần:
Đứt gân bán phần có thể tiến triển thành đứt gân hoàn toàn nếu bệnh nhân tiếp tục vận động vùng bị thương. Nếu cơ chế chấn thương hoặc thăm khám cho thấy tổn thương gân bán phần hoặc nếu thăm khám không xác định được thì cần dùng nẹp để bất động và không gây tổn thương thêm. Bước đánh giá tiếp, đôi khi cần chụp MRI, để đánh giá phạm vi, mức độ tổn thương. Cần chú ý đến các vùng tổn thương nhất định trong quá trình thăm khám để phát hiện các tổn thương thường bị bỏ sót (xem bảng ). Nếu khám thực thể thấy bình thường ở một khớp mà bệnh nhân có xác định là đau, nguyên nhân có thể biểu hiện là đau. Chẳng hạn, những bệnh nhân bị chấn thương khớp ức đòn có thể cảm thấy đau ở vai. Vì vậy, các bác sĩ lâm sàng nên luôn khám các khớp ở trên và dưới nơi tổn thương. Không phải tất cả các chấn thương chi đều cần chẩn đoán hình ảnh. Nhiều trường hợp tổn thương dây chằng mắt cá không đòi hỏi phải X-quang trong quá trình đánh giá ban đầu bởi vì xác suất tìm ra một đường vỡ xương mà cần thay đổi phương pháp điều trị thấp; đối với bong gân mắt cá chân, tiêu chuẩn chỉ định chụp X-quang được chấp nhận rộng rãi ( ) giúp hạn chế tia X cho những bệnh nhân có nhiều khả năng bị gãy cần điều trị đặc biệt. Nếu cần chẩn đoán hình ảnh, chụp X-quang thường được ưu tiên thực hiện. Chụp X-quang thường quy, thấy được chủ yếu là xương (và gián tiếp thấy tràn dịch khớp do chảy máu hoặc có vỡ xương nhưng bị khuất), được thực hiện để kiểm tra trật khớp và gãy xương; chụp X-quang thường không thấy được các bằng chứng trực tiếp của đứt dây chằng nhưng có thể thấy các tương quan giải phẫu bất thường gợi ý đến đứt dây chằng hoặc tổn thương phần mềm khác. Chụp X-quang nên gồm ít nhất 2 hướng được chụp ở hai mặt phẳng khác nhau (thường là hướng trước sau và hướng bên). Các chế độ xem bổ sung (ví dụ: xiên) có thể được thực hiện khi
Khi chụp tư thế nghiêng của các ngón tay, ngón cần chụp cần được tách biệt ra khỏi những ngón còn lại. MRI có thể được thực hiện để xác định tổn thương phần mềm, bao gồm dây chằng, gân, sụn và các tổn thương cơ. MRI hoặc CT cũng có thể được thực hiện để kiểm tra các đường vỡ khó phát hiện.
Nghi ngờ bị gãy xương hở hoặc trật khớp hở cần
Hầu hết các tổn thương mức trung bình và nặng, đặc biệt tổn thương mất vững hoàn toàn, được cố định lập tức bằng nẹp (cố định bằng thiết bị không cứng hoặc không hình vòng tròn) để giảm đau và để tránh thương tổn thêm mô khác do tổn thương mất vững. Sau khi điều trị ban đầu, các thương tổn phần mềm được điều trị theo triệu chứng và vẫn bất động chi. Nhiều đứt dây chằng độ ba hoặc đứt gân cần phẫu thuật sửa chữa. Những bệnh nhân bị tổn thương phần mềm, có hoặc không có các thương tổn cơ xương khác, tốt hơn khi sơ cứu bằng PRICE (bất động, nghỉ ngơi, chườm đá, băng ép, nâng cao chi) mặc dù hiệu quả chưa có đủ bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ. Bảo vệ giúp tránh các thương tổn thêm. Bao gồm hạn chế cử động phần tổn thương, sử dụng một thanh nẹp hoặc bó bột, hoặc sử dụng nạng. Nghỉ ngơi có thể ngăn ngừa tổn thương thêm và giúp hồi phục nhanh hơn. Chườm lạnh và băng ép làm giảm sưng và đau. Đá được bọc kín trong túi nilon hoặc khăn và được chườm ngắt quãng trong 24 đến 48 giờ đầu tiên (trong 15 đến 20 phút, mỗi lần chườm). Chấn thương có thể được băng ép thanh, băng thun, hoặc, đối với một số thương tích có thể gây ra sưng nề, băng gạc Jones. Băng ép Jones gồm 4 lớp; lớp 1 (trong cùng) và lớp 3 là bông cotton, và lớp 2 và 4 là băng thun. Nâng chi bị thương cao hơn tim trong 2 ngày đầu, lý tưởng nhất là ở vị trí có đường đi xuống không bị gián đoạn, để có trọng lực giúp thoát dịch phù nề và giảm thiểu sưng tấy. Sau 48 giờ, phủ ấm chi theo chu kì (ví dụ, bằng một miếng đệm lót sưởi ấm) trong 15 đến 20 phút có thể làm giảm đau và làm lành nhanh chóng. Cố định giúp giảm đau và tạo điều kiện phục hồi nhanh hơn do ngăn ngừa được thương tổn thêm. Đứt dây chằng độ 1 được cố định trong thời gian ngắn. Vận động sớm là tốt nhất. Độ 2 nhẹ thường được cố định bằng băng treo hoặc nẹp trong vài ngày. Đứt dậy chằng độ 2 và một số độ 3 hoặc rách gân được cố định trong vài ngày hoặc vài tuần, đôi khi cần bó bột. Đứt dây chằng độ 3 đòi hỏi phẫu thuật; thường cố định chỉ là biện pháp bổ trợ. Bệnh nhân được bất động bằng bột cần được đưa tờ hướng dẫn bao gồm:
Vệ sinh tốt là rất quan trọng. Thanh nẹp (xem hình ) có thể được sử dụng để cố định một số vết thương ổn định, bao gồm một số trường hợp gãy xương nghi ngờ nhưng chưa được chứng minh, gãy xương lành nhanh, bong gân và các vết thương khác cần bất động trong vài ngày hoặc ít hơn. Một thanh nẹp không hình vòng; do đó, nó cho phép bệnh nhân chườm đá và vận động nhiều hơn khi phải bó bột. Ngoài ra, nó không gây chèn ép trong một số trường hợp chi bị sưng nề, do vậy không gây ra hội chứng khoang. Một số tổn thương mà cuối cùng cần bó bột được cố định ban đầu bằng nẹp cho đến khi gần hết sưng nề chi. Bất động khớp trong điều trị cấp tính: Một số kỹ thuật thường được sử dụngBăng treo hỗ trợ và hạn chế vận động ở một mức độ nhất định; nó hữu ích với các tổn thương bị ảnh hưởng bất lợi từ cố định hoàn toàn (ví dụ, đối với chấn thương vai, nếu hoàn toàn cố định, có thể nhanh chóng dẫn đến viêm dính bao khớp vai [vai đông cứng]). Băng cuốn (một mảnh vải hoặc một dây đeo) có thể được sử dụng cùng với băng treo để ngăn cánh tay không xoay ngoài, đặc biệt vào ban đêm. Băng cuốn được cuốn vòng quanh lưng và trên vị trí tổn thương. Bất động khớp kéo dài (> 3 đến 4 tuần cho người trưởng thành trẻ) có thể gây ra cứng khớp, hạn chế vận động, và teo cơ. Những biến chứng này có thể phát triển nhanh chóng và có thể vĩnh viễn, đặc biệt là ở người cao tuổi. Một số loại chấn thương liền nhanh được điều trị tốt nhất khi cho phép tập vận động tích cực lại trong vài ngày hoặc vài tuần đầu; sự vận động sớm như vậy có thể giảm thiểu hiện tượng cứng cơ và teo cơ, do đó làm tăng tốc tiền trình hồi phục lại chức năng. Các nhà vật lý trị liệu tư vấn cho bệnh nhân về những gì họ có thể làm trong quá trình cố định để duy trì càng nhiều chức năng càng tốt (ví dụ, các bài tập vận động khuỷu tay, cổ tay và bàn tay nếu vai bị cố định). Sau khi cố định, các nhà vật lý trị liệu có thể giúp bệnh nhân phục hồi hoặc cải thiện phạm vi vận động và sức mạnh cơ bắp và đưa ra các bài tập để tăng cường và ổn định khớp bị tổn thương, do đó giúp ngăn ngừa tái phát và suy giảm chức năng sau này. Các bài tập vận động tầm vận động sớm rất quan trọng đối với tất cả bệnh nhân, đặc biệt là những người > 40 tuổi. Nhiều biến chứng và bệnh tật hơn có thể xảy ra đối với những bệnh nhân bất động khi họ già đi, đặc biệt là đối với những người > 40 tuổi. Nhiều đứt dây chằng độ ba hoặc đứt gân cần phẫu thuật sửa chữa. Phẫu thuật nội soi đôi khi được sử dụng Thủ thuật này được sử dụng thường xuyên nhất để sửa chữa dây chằng hoặc sụn chêm ở khớp gối. Người cao tuổi có xu hướng mắc các tổn thương về cơ xương nói chung vì các nguyên nhân sau đây:
Đối với bất kỳ tổn thương cơ xương nào ở người cao tuổi, mục tiêu điều trị là nhanh chóng trở về được các hoạt động hàng ngày. Bất động (bất động khớp) có nhiều khả năng gây ra các tác dụng phụ (ví dụ: cứng khớp, co cứng, teo cơ) ở người cao tuổi. Vận động sớm và vật lý trị liệu rất cần thiết để phục hồi chức năng. Các bệnh kèm theo (ví dụ, viêm khớp) có thể ảnh hưởng tới việc hồi phục.
Khuyến khích bệnh nhân, đặc biệt là người cao tuổi thực hiện các bài tập được khuyến cáo để duy trì phạm vi vận động và sức mạnh cơ bắp. Giơ ngón tay trỏ có ý nghĩa gì?Trong Hồi giáo, việc giơ ngón trỏ biểu thị Tawhīd (تَوْحِيد), biểu thị sự duy nhất không thể phân chia của Thượng đế. Nó được sử dụng để thể hiện sự thống nhất của Thiên Chúa ("không có thần thánh nào ngoài Allah"). Giơ ngón tay giữa có ý nghĩa gì?Việc giơ ngón tay giữa (thông tục: ngón tay thối) ra trước bị coi là một hành động khiếm nhã, hỗn xược. Đây là cử chỉ mang tính xúc phạm và khinh bỉ, đồng nghĩa với nói “cút đi” hoặc “fuck you”. Ở Đức, người có hành động này có thể bị đưa ra tòa vì tội phỉ báng, nhất là khi giơ ngón giữa với cảnh sát. Giơ 4 ngón tay có ý nghĩa gì?Đây là một ký hiệu đa nghĩa. Úp bàn tay xuống, chỉ 4 ngón về phía một người Hàn Quốc nghĩa là bạn đang bày tỏ thái độ gây chiến và căm ghét. Trong thời chiến, người Nhật Bản cũng sử dụng ký hiệu này để ám chỉ những kẻ thù người Hàn Quốc như “thú vật”. Đây là một cử chỉ khá khiếm nhã ở một số nền văn hóa. Chỉ tay ngón giữa nghĩa là gì?Tại các quốc gia phương Tây, việc giơ ra ngón giữa với bàn tay chụm lại, bị coi là một cử chỉ hỗn xược. Cử chỉ này thường được dùng để lăng mạ người, hay nhóm mà ngón tay này chỉ vào. Trong tiếng Việt nó được gọi là "ngón tay thối" (tiếng Đức: Stinkefinger). |