Hiện tượng thần kì Nhật Bản là gì

Là quốc gia bại trận, sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đặc biệt là về kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, nước Nhật đã tiến hành cải cách ruộng đất, cải tổ công ty và cải thiện điều kiện làm việc của công nhân…Điều này đem đến sự phát triển “thần kỳ” của kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1951-1973. Cùng tìm hiểu chi tiết vấn đề này qua bài viết sau.

Sau Chiến tranh thế giới thứ 2 – nền kinh tế Nhật như thế nào?

Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, nền kinh tế nước Nhật lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng; thiếu năng lượng, lạm phát kinh tế, vấn nạn thất nghiệp…Đất nước Nhật Bản bị quân đội Mỹ chiếm đóng.

Hầu hết các cơ sở sản xuất đều được chuyển sang sản xuất phục vụ chiến tranh, trong đó phần lớn bị phá hủy trong cuộc chiến. 6 triệu lính và người dân Nhật từ khắp các vùng chiến sự ở Thái Bình Dương quay trở về nước, Chính phủ nước này phải đối diện với gánh nặng – thất nghiệp.

>> Đây chính là lực cản trong quá trình khôi phục kinh tế.

Nhật là nước bại trận và chịu hậu quả nặng nề từ chiến tranh thế giới thứ 2

>>> Nước Nhật đã thực hiện một số cải cách lớn về kinh tế- xã hội

  • Giải thể các nhóm Zaibatsu: Việc này nhằm tiêu diệt sức mạnh quân sự của Nhật, xóa bỏ quyền kiểm soát của một số công ty lớn trong nền kinh tế.
  • Đồng thời, thực hiện cải tổ các công ty theo hướng phu tập trung hóa. Giải pháp này đã tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ cho tất cả các ngành công nghiệp và thúc đẩy cơ chế thị trường hoạt động mạnh,
  • Giải quyết vấn đề việc làm: Thực hiện cải thiện điều kiện làm việc, tăng lương cho công nhân. Đặc biệt, thực hiện dân chủ hóa lao động.
  • Trong khoảng thời gian từ 1945-1947, 3 đạo luật đã được ban hành là Luật công đoàn, Luật tiêu chuẩn lao động và Luật điều chỉnh các quan hệ lao động.

>> Những cải cách này nhằm tạo điều kiện để nước Nhật khôi phục kinh tế và chuyển hướng từ Nhà nước quân sự sang Nhà nước hướng phát triển kinh tế.

  • Cải cách ruộng đất: Quy định địa chủ chỉ được giữ lại một phần ruộng đất, tối đa là 5ha, giảm xuống còn 1ha. Phần còn lại nhà nước sẽ mua và chuyển nhượng cho những nông dân không có ruộng đất.

Sự phát triển thần kỳ của kinh tế Nhật Bản sau thế chiến thứ 2

Với “tinh thần nước Nhật” và sự đồng lòng của toàn thể nhân dân “xứ Phù Tang”, khoảng 20 năm sau chiến tranh [1951-1973], nền kinh tế Nhật Bản phát triển với tốc độ chóng mặt. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là sự phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản.

Từ một đống đổ nát sau chiến tranh, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 trong thế giới tư bản sau Mỹ. Cụ thể:

Tốc độ phát triển kinh tế tăng nhanh

Từ 1952- 1973, tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế của Nhật Bản ở mức cao nhất trong các nước tư bản. So với thời điểm năm 1950, năm 1973 giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 20 lần, từ 20 tỷ USD lên 402 tỷ USD, vượt Anh, Pháp và CHLB Đức.

Từ 1951- 1973, kinh tế Nhật Bản bước vào sự phát triển thần kỳ

Tốc độ phát triển công nghiệp thời kỳ 1950-1960 là 15,9%; từ 1960-1969 là 13,5%. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên 56,4 tỷ USD năm 1969.

Các ngành công nghiệp phát triển và đẩy mạnh

Những ngành công nghiệp then chốt đã tăng lên với nhịp độ nhanh. Mặc dù Nhật hầu như không có mỏ dầu, xong lại đứng đầu các nước tư bản về nhập và chế biến dầu thô. Riêng năm 1971 đã nhập tới 186 triệu tấn dầu thô; công nghiệp sản xuất thép năm 1950 là 4,8 triệu tấn, đến năm 1973 là 117 triệu tấn.

Năm 1960, ngành công nghiệp ô tô của Nhật đứng hàng thứ 6 trong thế giới tư bản và đến năm 1967 vươn lên hàng thứ 2 sau Mỹ.

Công nghiệp đóng tàu đến những năm 1970 chiếm 50% tổng số tàu biển và có sáu trong mười nhà máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản.

Sự phát triển nhanh của  một số ngành kinh tế lớn đã làm thay đổi nhanh cơ cấu ngành sản xuất của Nhật Bản. Tỷ trọng các ngành nông-lâm-ngư nghiệp giảm đi đáng kể. Thay vào đó là sự tăng trưởng trong ngành công nghiệp, dịch vụ.

Đến nay, Nhật đã vươn lên trở thành “con rồng châu Á” với nền kinh tế phát triển mạnh mẽ

Hiện nay, Nhật Bản đang là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế hàng đầu châu Á và thế giới, được ví như “con rồng châu Á”. Để đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế, Nhật đã và đang đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động từ nhiều quốc gia trong khu vực, trong đó, Việt Nam là một trong những thị trường chủ lực.

 “Yếu tố” nào đem đến sự phát triển thần kỳ của kinh tế Nhật?

Phát huy vai trò của nhân tố con người

Sự phát triển “thần kỳ” của kinh tế Nhật Bản phải để đến yếu tố đầu tiên là con người. Kế thừa nền giáo dục của thời kỳ trước, từ sau thế chiến thứ hai, Nhật đã phổ cập hệ giáo dục 9 năm. Trên cơ sở đó, người Nhật chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng kỹ thuật, công nghệ mới.

Sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế- đầu tiên phải kể đến yếu tố con người

Thêm đó, đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo, có chất lượng cao, góp phần đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất nước.

Các nhà quản lý kinh doanh cũng được đánh giá là những người nhạy bén, biết nắm bắt thị trường và đổi mới phương pháp kinh doanh, đem đến những thắng lợi của công ty Nhật trên trường quốc tế.

Duy trì mức tích lũy và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả

“Đất nước mặt trời mọc” được coi là nước có tỷ lệ tích lũy vốn cao nhất trong những nước tư bản phát triển. Tỷ lệ tích lũy vốn thường xuyên của giai đoạn 1052-1973 khoảng 30-35% thu nhập quốc dân.

Trong đó, tỷ lệ đầu tư vào tư bản cố định trong tổng sản phẩm xã hội của Nhật Bản cao. Đây là một trong những nhân tố quyết định, đảm bảo cho nền kinh tế Nhật phát triển với tốc độ cao.

Về sử dụng vốn, Nhật cũng là một nước sử dụng vốn táo bạo và có hiệu quả. Tại Nhật Bản, nhiều ngân hàng thương mại chấp nhận cho vay đến 95% tổng số vốn. Biện pháp có phần mạo hiểm này tạo điều kiện tăng nhanh số vốn chuyển vào sản xuất kinh doanh.

Những yếu tố quan trọng khác

Bên cạnh đó, còn có những yếu tố khác như:

  • Tiếp cận và ứng dụng nhanh những tiến bộ khoa học – kỹ thuật
  • Chú trọng vai trò điều tiết của kinh tế Nhà nước
  • Mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước
  • Kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng
  • Đẩy mạnh hợp tác với Mỹ và các nước khác

Trên đây là một vài nét nổi bật của kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn phát triển thần kỳ [1951- 1973]. Hi vọng bài viết đã đem đến chia sẻ hữu ích, giúp bạn hiểu thêm về kinh tế Nhật cũng như tinh thần Nhật Bản.

TƯ VẤN XKLĐ NHẬT BẢN 24/7

HỖ TRỢ TƯ VẤN TRỰC TUYẾN VÀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THAM GIA

HOTLINE: 091.858.2233 [Hỗ trợ tư vấn 24/7 qua: Call, Message, Zalo, SMS]

Nếu không tiện nói chuyện qua điện thoại hoặc nhắn tin ngay lúc này, bạn có thể YÊU CẦU GỌI LẠI bằng việc nhập số điện thoại vào form bên dưới để được cán bộ tư vấn của công ty liên lạc hỗ trợ.

Sau thế chiến II, nền kinh tế Nhật Bản ở trong thời gian mò mẫm để tìm ra con đường vực dậy từ tình trạng hỗn loạn do sự thất bại sau chiến tranh để lại. Đúng thời kì đó một cơ hội vàng đã đến với Nhật bản – nhu cầu khí tài cực lớn trong chiến tranh liên Triều. Nhờ đó nền kinh tế đã được vực dậy từ nửa cuối những năm 1950 đến thập niên 60, đánh dấu sự mở đầu của giai đoạn phát triển thần kì. Trong khoảng thời gian 1955 đến năm 1970, tỉ lệ tăng trưởng thực chất GNP trung bình hàng năm đạt tới 9.8%, nền kinh tế Nhật Bản thực sự bước vào thời đại “Phát triển kinh tế cao độ” được ví như là một truyền thuyết trong lịch sử phát triển kinh tế đất nước.

Nền kinh tế Nhật Bản sau thời kì phát triển cao độ đó vẫn có những bước phát triển bền vững và đến ngày nay đã biến nước Nhật trở thành một cường quốc kinh tế của thế giới. Sự thành công của mô hình phát triển kinh tế Nhật Bản dần thu hút được sự quan tâm đặc biệt trong thế giới tự do sau chiến tranh. Có không ít các quốc gia đang phát triển ấn tượng với mô hình phát triển của Nhật bản, lấy đó làm hình mẫu để đưa ra các sách định trong chính sách phát triển kinh tế đất nước.

Nhưng nhìn nhận khách quan, chúng ta phải thấy và không được quên rằng nước Nhật đã hội tụ được những điều kiện cần thiết để thực hiện thành công giai đoạn phát triển thần kì đó. Nhìn những quốc gia đang phát triển bắt chước mô hình Nhật Bản mà không thu được thành công thì chắc rằng họ đã không hội tụ đủ những điều kiện đặc thù làm tiền đề này.

Vậy những điều kiện của sự phát triển kinh tế thần kì của Nhật Bản là gì? Đâu là bí quyết trong sự thành công đó? Thực tế, đã có rất nhiều nguyên nhân hợp lại một cách hoàn hảo trong điều kiện thời gian và không gian tại thời điểm đó. Trong bài này, để tiện phân tích sẽ đề cập tới 4 từ khóa tựa như “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” là: Con người  –  Vật chất  –  Tiền  –  Thời kì

1. Điều kiện thứ nhất của sự phát triển thần kì – Con người

Con người ở đây chính là sức lao động. Nước Nhật sau chiến tranh có nguồn lao động rẻ nhưng chất lượng rất cao. Tức là với một vốn kĩ thuật sản xuất nhất định có thể đưa ra những sản phẩm giá thành rẻ do giá nhân công rẻ. Đặc biệt hơn nữa là với phong trào sinh con [baby boom] sau chiến tranh, thì tới những năm thập niên 60 nước Nhật đã có được một thế hệ với nguồn năng lượng dồi dào, sức lao động có thừa.

Thêm nữa phải kể đến sự ra đời của 3 điều luật trong bộ luật lao động [luật hợp tác xã lao động, luật cơ chuẩn lao động, luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến lao động] bảo vệ quyền lợi và cuộc sống sinh hoạt của người lao động. Cùng với việc các công ty Nhật Bản áp dụng chính sách tuyển dụng cả đời, tăng lương theo số năm làm việc [đây là điểm đặc sắc cơ bản trong tư duy kinh doanh của người Nhật] đã giúp người lao động có thể hoàn toàn yên tâm để cống hiến hết tinh thần, sức lực, trí tuệ cho công việc.

 Chú thích thêm : Trong giai đoạn này, mọi tầng lớp trong mỗi công ty đều coi công ty chính là nhà của mình, người ta làm trong một công ty từ tuổi thanh niên đến khi về già. Ngay cả bây giờ khi tiếp xúc với người khác họ vẫn dùng cách gọi công ty mình làm việc là: uchi no kaishya – công ty nhà tôi .

Điều kiện “Con người” ở đây có tính hai mặt. Nếu trên đây đề cập tới sức lao động, thì mặt còn lại chính là lực lượng người tiêu dùng. Lực lượng sản suất đông đảo đồng nghĩa với lực lượng tiêu dùng đông đảo, thúc đẩy việc tiêu thụ một lượng lớn những mặt hàng được sản xuất. Đặc biệt hiện tượng phân tách gia đình hạt nhân từ những đại gia đình đã góp phần không nhỏ trong việc phổ cập thiết bị điện dân dụng. Nhu cầu to lớn trong nước đã đưa nền kinh tế phát triển một cách vững mạnh.

2. Điều kiện thứ hai của sự phát triển thần kì – Vật chất

Vật chất ở đây chính là việc sản xuất. Sau những năm 1950, trong những nghành sản xuất chủ chốt, các công ty đã mở rộng việc cạnh tranh lẫn nhau bằng việc đưa những kĩ thuật mới từ Âu – Mỹ hay trực tiếp nghiên cứu phát triển những sản phẩm mới, cải tiến kĩ thuật cũ. Nhờ đó việc đầu tư thiết bị với những kĩ thuật mới thu được được thực hiện khắp nơi. Đây là một phần trong cuộc cạnh tranh phá giá trong bối cảnh một vài công ty lớn thâu tóm một lĩnh vực kinh doanh nào đó. Ngoài ra những ngành công nghiệp mới như: công nghiệp hóa học nặng, cộng nghiệp điện tử, công nghiệp sản phẩm lâu bền [ô tô, đồ điện dân dụng …] ngày càng được phát triển và dần trở thành những ngành công nghiệp quan trọng của Nhật Bản. Trong thời kì phát triển thần kì này, ba mặt hàng trọng điểm là tivi, máy giặt, tủ lạnh trở thành biểu tượng cho sự phổ cập nhanh chóng của các mặt hằng lâu bền đến mức người ta đã gọi đây là 3 thần khí để miêu tả mặt tiêu dùng của xã hội Nhật bản thời bấy giờ. Thêm nữa, trong thời kì này nền sản xuất số lượng lớn với hiệu suất cao được xác lập, các sản phẩm của Nhật bản với giá thành hạ và chất lượng được cải thiện đã xâm nhập nhanh chóng vào các thị trường nước ngoài chứ không chỉ trong nước.

3. Điều kiện thứ ba của sự phát triển thần kì – Tiền

Tiền ở đây chính là vấn đề tài chính doanh nghiệp, như hệ thống ngân hàng giao dịch chính hay sự ổn định hóa của các cổ đông lớn. Các công ty xí nghiệp có những hợp đồng liên kết giao dịch dài hạn đặc biệt với một ngân hàng nhất định để đảm bảo nguồn đầu tư tư bản ổn định trong thời gian dài, không cần hồi trả ở những thời điểm khó khăn, thay vào đó mọi quyết toán của công ty phải được thực hiện bằng tài khoản của ngân hàng đó và có trách nhiệm cung cấp thông tin cần thiết cho ngân hàng. Vấn đề thiếu vốn đầu tư của doanh nghiệp và sự cạnh tranh giữa các ngân hàng làm cho mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng trở nên hai bên đều phụ thuộc lẫn nhau.

Những doanh nghiệp tiêu biểu của Nhật thời kì đó có thể kể đến SONY hay HONDA thời kì đầu đã rất khó khăn về vốn, nhưng họ đã nhận được những khoản đầu tư rất lớn để phát triển nhanh chóng và lớn mạnh như ngày nay. Hệ thống ngân hàng chính đã phát huy hiệu quả trong việc đào tạo những doanh nghiệp sở hữu những kĩ thuật có triển vọng, cho thấy một mặt đặc trưng về tài chính của thời kì phát triển kinh tế cao độ của Nhật. Thêm nữa, các ngân hàng chính trở thành trung tâm trong việc sở hữu cổ phần lẫn nhau giữa các công ty, góp phần làm cho thành phần cổ đông ổn định. Nhờ thế mà đội ngũ lãnh đạo việc kinh doanh có thể an tâm để tập trung cho việc phát triển công ty.

4. Điều kiện thứ tư của sự phát triển thần kì – Thời cơ

Năm 1949 nước Nhật đưa ra chính sách tài chính mang tên Dodge Line nhằm mục đích hướng tới một nền kinh tế tự lập và ổn định đặt trọng tâm vào các vấn đề cơ sở hạ tầng, chấn hưng xuất khẩu, hạn chế tiêu dùng trong nước. Nhờ chính sách này mà vấn đề về cơ sở hạ tầng sau thế chiến được giải quyết, tỉ giá đồng đô la cũng được cố định ở mức 1 đô la = 360 yên. Ngay năm tiếp theo – năm 1950, chiến tranh Triều Tiên nổ ra, với tỉ giá đồng yên rẻ [360 yên] và nhu cầu mặt hàng nhu yếu phẩm từ Triều Tiên cực lớn, nền kinh tế Nhật Bản đã phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng vượt qua mức trước thế chiến II. Thời điểm đó, việc coi chính sách công nghiệp hóa hướng đến xuất khẩu chưa được nhận thức đúng đắn như một chiến lược phát triển kinh tế nên việc Nhật Bản thực hiện từ sớm chính sách này chính là chìa khóa của sự thành công trong phát triển kinh tế, bởi điều đó đem lại may mắn là không có đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu. So với hiện nay, các nước đưa ra những chiến lược hướng đến xuất khẩu tương tự nhau nên việc xuất khẩu không được khả quan như dự tính.Trong bối cảnh như vậy, các điều kiện có lợi cho phát triển về “Con người”, “Vật chất”, “Tiền” đạt được cùng lúc tạo ra một điều kiện tổng hợp đã giúp kinh tế Nhật Bản thành công với sự phát triển thần kì.

Qua đây chúng ta cần nhận rõ không chỉ nhìn vào sự phát triển kinh tế, những kĩ thuật siêu việt của Nhật Bản hiện, mà cần phải tìm hiểu ngọn nguồn của sự phát triển đó. Sự khác nhau về bối cảnh xã hội và cơ hội [chiến tranh liên Triều] mang lại sự thuận lợi hay khó khăn trong việc phát triển kinh tế. Theo sự nhìn nhận của người viết, bốn nguyên nhân trên mới chỉ là điều kiện để nước Nhật bắt đầu một cuộc phát triển thần kì. Để định hướng và điều chỉnh hướng đi cho nền kinh tế trong quá trình phát triển đó có những chính sách kịp thời và nhất quán nữa. Và đặc biệt trong lĩnh vực kĩ thuật sản xuất, đức tính chung của người kĩ sư Nhật Bản là : làm đến cùng, không bằng lòng với kĩ thuật hiện tại, luôn luôn có ý thức cải tiến bằng suy nghĩ của bản thân không sao chép, tạo bản sắc của công ty trong mỗi sản phẩm đã đưa kĩ thuật made in Japan lên đỉnh cao thế giới như ngày hôm nay.

Tại sao kinh tế Nhật Bản lại có sự phát triển “thần kỳ” đến vậy? Chỉ trong một thời gian ngắn, chưa đầy 20 năm, Nhật Bản đã trở thành siêu cường tài chính số 1 với trữ lượng vàng và ngoại tệ gấp 3 lần Mỹ. Điều gì đã giúp Nhật phát triển nhanh và mạnh đến vậy? Cùng Xkld Nhật Bản khám phá giai đoạn phát triển thần kỳ cũng như những nhân tố đã đưa Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất thế giới!

Điều gì làm nên sự phát triển THẦN KỲ của nền kinh tế Nhật Bản

Nhật Bản là một trong số các quốc gia được nghiên cứu nhiều nhất về lịch sử kinh tế. Giai đoạn đầu tiên bắt đầu từ sự thành lập thành phố Edo [năm 1603] dẫn đến sự phát triển toàn diện của kinh tế nội địa. Giai đoạn thứ hai từ cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân [năm 1868] đưa nước Nhật trở thành cường quốc đầu tiên ở châu Á sánh được với các quốc gia châu Âu. Trong giai đoạn cuối cùng, từ sự thất trận trong Thế Chiến thứ hai [năm 1945] đảo quốc này đã vươn mình trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và đây được xem là giai đoạn “thần kỳ” nhất trong lịch sử kinh tế Nhật cho đến nay [từ 1951 đến 1973]

Tình hình Nhật Bản sau thế chiến thứ 2

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật là nước bại trận, đất nước bị chiến tranh tàn phá, kinh tế khó khăn, mất hết thuộc địa, nghèo tài nguyên, thất nghiệp, thiếu nguyên liệu, lương thực và lạm phát. Sản xuất công nghiệp năm 1946 chỉ bằng 1/4 so với trước chiến tranh. Nhật phải dựa vào “viện trợ” kinh tế của Mỹ dưới hình thức vay nợ để phục hồi kinh tế.

Từ năm 1950, chiến tranh Triều Tiên nổ ra cũng là lúc mà ngành công nghiệp của Nhật Bản phát triển đến kinh ngạc. Mỹ muốn Nhật sản xuất vũ khí để ủng hộ Nam Triều Tiên. Sản lượng công nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực đóng tàu và sản xuất sắt thép tăng nhanh chóng. Sau khi cuộc chiến kết thúc, Nhật bắt đầu xây dựng các nhà máy và khu công nghiệp mới.

Ngoài kỹ năng về lao động và quản lý, Nhật Bản còn có những lợi thế khác. Nước này có nhiều nhà máy cho năng suất cao, đem lại lợi nhuận và nằm ở những vị trí vô cùng thuận lợi. Các nhà máy quy mô lớn ở miền duyên hải có thể nhập khẩu nguyên liệu với số lượng lớn từ vùng nào có giá nguyên liệu rẻ nhất. Sản lượng và doanh thu từ thép tăng vọt. Đóng tàu và các ngành công nghiệp khác cũng phát đạt. Trong đó, có một số ngành mới như điện tử, sản xuất ô tô, đồ điện cũng bắt đầu phát triển. Từ những ngành công nghiệp trên, các nhãn hiệu hàng đầu thế giới bắt đầu xuất hiện như Sony, Panasonic và Honda.

Nguyên nhân dẫn đến sự phát triển thần kỳ

Sự phát triển rất nhanh của nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1951-1973 bắt nguồn từ một số nguyên nhân cơ bản sau:

Nhân tố lịch sử

Kể từ Minh Trị duy tân đến trước thế chiến thứ 2, Nhật Bản đã có 70 năm phát triển đất nước theo mô hình hiện đại và đã trở thành cường quốc số 1 châu Á trong thập niên 1930. Dù bị tàn phá nặng nề trong thế chiến, nhưng những nhân tố và kinh nghiệm quý báu của Nhật Bản vẫn còn nguyên vẹn, họ có thể tận dụng kinh nghiệm này để nhanh chóng xây dựng lại nền kinh tế.

Nhân tố con người

Trước thế chiến thứ 2, Nhật Bản đã có đội ngũ chuyên gia khoa học và quản lý khá đông đảo, có chất lượng cao. Dù bại trận trong thế chiến 2 nhưng lực lượng nhân sự chất lượng cao của Nhật vẫn còn khá nguyên vẹn, họ đã góp phần đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất nước. Người Nhật được giáo dục theo những luân lý của Nho giáo với những đức tính cần kiệm, kiên trì, lòng trung thành, tính phục tùng… vẫn được đề cao. Nhờ đó, giới quản lý Nhật Bản đã đặc biệt thành công trong việc củng cố kỷ luật lao động, khai thác sự tận tụy và trung thành của người lao động.

Mức tích lũy cao thường xuyên, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cao: những năm 1950, 1960, tiền lương nhân công ở Nhật rất thấp so với các nước phát triển khác [chỉ bằng 1/3 tiền lương của công nhân Anh và 1/7 tiền lương công nhân Mỹ], đó là nhân tố quan trọng nhất để đạt mức tích lũy vốn cao và hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, Nhật Bản đã chú ý khai thác và sử dụng tốt nguồn tiết kiệm cá nhân. Từ 1961-1967, tỷ lệ gửi tiết kiệm trong thu nhập quốc dân là 18,6% cao gấp hơn hai lần của Mỹ [6,2%] và Anh [7,7%]

Nhật Bản không có quân đội

Điều này giúp Nhật có thể giảm chi phí quân sự xuống mức dưới 1% tổng sản phẩm quốc dân, nguồn lực đó có thể chuyển sang phát triển kinh tế.

Tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học-kỹ thuật

Trước thế chiến thứ 2, Nhật Bản đã là một cường quốc về khoa học, công nghệ. Sau chiến tranh, nhân tố này tiếp tục được phát huy.

Tình hình quốc tế có nhiều thuận lợi

Trong các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và Việt Nam, Chính phủ Mỹ đã có hàng loạt đơn đặt hàng với các công ty của Nhật Bản về trang bị, khí tài và các đồ quân dụng khác. Từ năm 1950 đến 1969, Nhật Bản đã thu được 10,2 tỷ USD các đơn đặt hàng của Mỹ [tương đương 70 tỷ USD theo thời giá 2015]. Trong giai đoạn này, 34% tổng giá trị hàng xuất khẩu sang Mỹ và 30% giá trị hàng nhập của Nhật là từ thị trường Mỹ. Có thể nói nhu cầu về hàng hóa của Mỹ cho các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và Việt Nam là hai “ngọn gió thần” đối với nền kinh tế Nhật Bản.

Những thành tựu nổi bật của Kinh tế Nhật Bản trong thời kỳ này

  • Tốc độ phát triển kinh tế của Nhật Bản giai đoạn từ 1950-1973 nhanh và ổn định

Bảng: Tốc độ tăng GDP trung bình của Nhật Bản [đơn vị: %]

Giai đoạn 1950-1954 1955-1959 1960-1964 1965-1969 1970-1973
Tăng GDP 18,8 13,1 15,6 13,7 7,8
  • Đầu những năm 70, Nhật trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính thế giới cùng với Mỹ và Tây Âu.

Những mâu thuẫn của nền kinh tế Nhật Bản

Bên cạnh đó, nền kinh tế Nhật Bản cũng đã phải đối mặt với những mâu thuẫn gay gắt:

  • Sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế: Phần lớn công nghiệp tập trung ở các đô thị phía Đông nước Nhật, trong khi đó các vùng phía Tây và các vùng nông nghiệp vẫn còn trong tình trạng lạc hậu. Nhiều nhà kinh tế phương Tây nhận xét rằng có hai nước Nhật: một nước Nhật rất hiện đại ở các đô thị và một nước Nhật cũ kỹ ở các vùng nông thôn.
  • Sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào bên ngoài cả về thị trường tiêu thụ hàng hóa và nguồn cung cấp nguyên liệu. Khi giá nguyên liệu tăng, kinh tế bị tác động mạnh.
  • Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt do các công ty vì chạy theo lợi nhuận nên đã hạn chế những chi phí cho phúc lợi xã hội, duy trì lề lối làm việc khắc nghiệt khiến người làm công bị áp lực nặng nề, dẫn tới nạn tự sát và thanh niên ngại kết hôn và sinh con. Về lâu dài, mâu thuẫn này sẽ phát tác làm kinh tế dần trì trệ đi [tới cuối thế kỷ 20, tình trạng già hóa dân số đã thực sự trở thành vấn đề nghiêm trọng tại Nhật Bản]

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ sự phát triển kinh tế của Nhật Bản

Nếu như khoa học – kỹ thuật là nguyên nhân quan trọng nhất làm nên sự phát triển kinh tế của Mỹ thì với Nhật Bản lại khác, một đất nước thất bại trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, phải gánh chịu hậu quả nặng nề; tài nguyên thiên nhiên lại nghèo nàn, cơ cấu kinh tế chưa cân đối và sự canh tranh quyết liệt của các nước tư bản. Chính vì thế, sức mạnh của con người Nhật Bản chính là nhân tố quan trọng nhất dẫn tới sự phát triển thần kì của đất nước này ở giai đoạn 1960 – 1973.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ sự phát triển kinh tế của Nhật Bản

Do đó các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam có thể vận dụng bài học này, tập trung đầu tư phát triển giáo dục con người, áp dụng thành tựu khoa học – kĩ thuật của thế giới, coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu để tạo ra nguồn lực vững chắc cho công cuộc đổi mới hiện nay.

>>>Xem thêm: 7 lý do hấp dẫn nên đi xuất khẩu lao động Nhật Bản 2021

Những năm gần đây các bạn trẻ và người lao động Việt có xu hướng lựa chọn Nhật Bản làm môi trường để học tập và làm việc để nâng cao kỹ năng, tay nghề đồng thời đây là một thị trường kinh tế năng động đầy tiềm năng để nâng cao thu nhập và phát triển kinh tế. Nếu bạn có dự định tìm hiểu về các chương trình du học hay các đơn tuyển dụng Nhật Bản trong năm 2021, Xkld Nhật luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn. Bạn có thể để lại câu hỏi dưới comment hoặc gọi đến số Hotline 091 858 2233 để được TƯ VẤN HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ nhé!

Xuất khẩu lao đông Nhật Bản Thanh Giang Conincon

THANH GIANG CONINCON GROUP

Hotline: 091 858 2233

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề