khi viết báo, bút danh của đại tướng nguyễn chí thanh là gì?

Nguyễn Chí Thanh tên thật là Nguyễn Vịnh sinh ngày 01 tháng 01 năm 1914, quê làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông là con trai của Nguyễn Hán và Trần Thị Thiển, con thứ sáu trong gia đình có 11 người con [tính cả anh em cùng cha khác mẹ]. Ông sinh trưởng trong một gia đình trung nông, thuở nhỏ cũng được học hành. Năm 14 tuổi, cha qua đời, gia đình nghèo, ông bỏ học, đi làm tá điền kiếm sống và nuôi gia đình.

Năm 1934, ông tham gia cách mạng trong phong trào Mặt trận Bình dân.

Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lần lượt giữ các chức vụ: Bí thư chi bộ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên.

Từ năm 1938 đến năm 1943, ông nhiều lần bị Pháp bắt giam ở nhà lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Đến khi Nhật đảo chính Pháp [ngày 09 tháng 03 năm 1945] mới ra tù. Sau khi ra tù và trở lại hoạt động, ông được bầu làm Bí thư Khu ủy khu IV và được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào [8-1945]. Trong Đại hội Đảng ở Tân Trào, ông được đặt bí danh là Nguyễn Chí Thanh, được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ có nhiệm vụ theo dõi và tổ chức giành chính quyền tại Trung Kỳ trong Cách mạng tháng 8.

Từ năm 1948 đến 1950, ông làm Bí thư Liên khu ủy IV. Cuối năm 1950, làm Chủ nhiệm Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II [1951], được cử vào Bộ Chính trị.

Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng [1960], Nguyễn Chí Thanh lại được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được cử vào Bộ chính trị và Ban Bí thư. Năm 1961, được giao nhiệm vụ Phụ trách Ban Nông nghiệp của Đảng. Trong chiến tranh Việt Nam, Trung ương Đảng điều ông trở lại quân đội. Nguyễn Chí Thanh còn là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1961, ông liên tục phát động các phong trào thi đua trong các hợp tác xã, giúp ổn định tình hình phát triển trong hoạt động sản xuất nông nghiệp miền Bắc.

Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam. Thời gian này ông lấy bí danh là Sáu Vi. Khi viết báo, ông thường lấy bút danh là Trường Sơn.

Tại chiến trường, ông là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh", lối đánh này dùng phương châm cơ động áp sát nhằm hạn chế ưu thế hỏa lực của quân Mỹ.

Ông mất ngày 06 tháng 07 năm 1967 tại Hà Nội do một cơn nhồi máu cơ tim khi ra Hà Nội để báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình miền Nam.

Cũng chỉ còn không đến trăm ngày nữa, nhân dân Thừa Thiên Huế, nhân dân Việt Nam sẽ kỷ niệm năm chẵn 90 tuổi của một con người mà tên tuổi và cuộc đời ông đã gắn liền với sự nghiệp cách mạng với tư cách là nhà chính trị quân sự lỗi lạc, người lãnh đạo mẫu mực, vị tướng tài ba, nhân nghĩa của nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh: Đại tướng Nguyễn Chí Thanh [tên khai sinh là Nguyễn Vịnh]. Ông sinh ngày 1-1-1914 trong một gia đình nông dân tại thôn Niêm Phò - Xã Quảng Đức - Huyện Quảng Điền - Tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngay từ khi còn ở tuổi thanh niên Nguyễn Vịnh đã thể hiện bản lĩnh gan góc, kiên quyết và khả năng tập hợp mọi người đoàn kết chống lại bóc lột của người giàu đối với người nghèo và ước muốn xoá bỏ được mọi sự bất công trên đời. Từ năm 1934 ông tham gia cách mạng. Năm 1937 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Đầu năm 1938 giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Tỉnh Thừa Thiên. Thực dân Pháp đã 3 lần bắt giam ông từ 1938 đến 1945. Giữa các lần bị bắt giam cứ có thời cơ ông lại tìm cách trốn để về với phong trào cách mạng.

Tháng 8 năm 1945, Nguyễn Vịnh được cử là đại biểu đi dự Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng ở Tân Trào. Tại đây, tối ngày 13.8.1945, ông đã được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước khi nghe báo cáo tình hình chuẩn bị khởi nghĩa ở Thừa Thiên Huế, Người đã có câu hỏi \"nhớ đời\" ấy. Khoảng cách giữa vị lãnh tụ vĩ đại và người cán bộ tài ba của Đảng trên quê hương Thừa Thiên Huế hầu như không còn. Cho đến sau này Nguyễn Vịnh vẫn nhiều lần nhắc đến giây phút đầu tiên được gặp Bác Hồ đầy xúc động ấy.

Hai ngày liền hội nghị họp và cũng liên tiếp Nguyễn Vịnh thêm nhiều điều mới mẻ đến với mình. Được cử là Uỷ viên Trung ương trực tiếp làm Bí thư Xứ uỷ Trung kỳ và phụ trách công tác Lào. Để giữ bí mật, Đảng và Bác Hồ còn đặt cho ông tên gọi mới: Nguyễn Chí Thanh. Điều đó được giữ kín. Đến lúc công bố danh sách các đồng chí trong Trung ương, Nguyễn Vịnh đã rất ngạc nhiên khi được đồng chí Tống [Phạm Văn Đồng] nói rằng: Nguyễn Chí Thanh chính là tên của Vịnh trong Đảng. Sau này, các thế hệ người Việt Nam hầu hết đều gọi ông là Nguyễn Chí Thanh.

Hội nghị kết thúc Nguyễn Chí Thanh nhanh chóng trở về truyền đạt và triển khai Nghị quyết của Trung ương. Khởi nghĩa thắng lợi trong cả nước, Chính quyền cách mạng do dân làm chủ đã được thành lập. Từ Hà Nội, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Với cương vị Bí thư Xứ uỷ, Nguyễn Chí Thanh đã triệu tập hội nghị để thống nhất tổ chức Đảng ở miền Trung, kiện toàn cơ quan Xứ uỷ, xây dựng kế hoạch để giải quyết những vấn đề cấp bách của cách mạng đề ra. Với cương vị là Tổng bộ Việt Minh ở miền Trung cùng với các đồng chí trong tập thể lãnh đạo, ông đã gặp gỡ và trao đổi công việc với Hoàng thân Suphanuvông [Lào]. Theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã tổ chức việc chuẩn bị cho chuyến về nước của Hoàng thân từ thành phố Vinh về Lào để kịp thời tham gia chính phủ nhân dân mới được thành lập [10/1945]. Cùng đi còn có một trung đội những người Việt Nam do đồng chí Nguyễn Chí Thanh chọn lựa: thạo quân sự, giỏi tiếng Pháp, giác ngộ cách mạng như: Lê Thiệu Huy, Hoàng Xuân Bình. . . Một trong số đó đã anh dũng hi sinh ở Thà Khét ngày 22-3-1946 khi lấy thân mình che đạn cứu sống Hoàng thân. Trong hồi ký của mình, Hoàng thân Suphanuvông đã kể lại những ấn tượng sâu sắc, tốt đẹp khi được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Nguyễn Chí Thanh và ông còn giữ mãi ấn tượng đó từ khi chỉ là người yêu nước trong hoàng tộc cho đến lúc là Chủ tịch của nước Lào cách mạng, dân chủ sau này. Từ 1945-1948, là Bí thư Xứ uỷ Trung kỳ, Bí thư khu Bình Trị Thiên... Nguyễn Chí Thanh cùng tập thể Xứ uỷ đã phải đối phó với những tình huống cực kỳ gay go, ác liệt thậm chí là nguy kịch: Địch dùng vũ khí tấn công làm vỡ các tổ chức của ta, tách dân với chính quyền cách mạng, cô lập các cơ sở Đảng, cắt liên lạc giữa dân với Đảng, buộc các cơ quan của Đảng phải rút lên núi... Song với sự can trường, quyết đoán, sáng tạo, hình tĩnh, lạc quan và tin tưởng vào nhân dân, Nguyễn Chí Thanh đã từng bước chỉ đạo, khôi phục lại cơ sở, tổ chức bám dân, bám đất. Câu nói của ông lại Hội nghị Nam Dương [3/1947] đã trở thành khẩu hiệu hành động cho xứ uỷ Trung kỳ, chiến trường Bình Trị Thiên thời kỳ ác liệt nhất: Chúng ta không để mất dân, chết không rời cơ sở. Chúng ta nhất định sẽ thắng.

Đầu năm 1948, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị mở rộng đề ra những quyết sách mới để đối phó với tình hình và đẩy mạnh phong trào cách mạng lên một bước mới. Ngày 25-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 120/SL về việc hợp nhất các khu thành các liên khu. Cuối năm 1948, tại Đại nội đảng bộ Liên khu 4, đồng chí Nguyễn Chí Thanh được bầu làm Bí thư liên khu uỷ. Cùng năm đó, tại chiến khu Việt Bắc trong cuộc gặp gỡ báo cáo tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen đồng chí Nguyễn Chí Thanh bằng câu \"Chào ông tướng du kích\".

Đầu năm 1950, Trung ương điều đồng chí Nguyễn Chí Thanh tăng cường cho cơ quan Trung ương ở Việt Bắc. Đây là bước ngoặt lớn trong sự nghiệp cách mạng của ông. Ra Việt Bắc, ban đầu ông giữ trách nhiệm Trưởng ban Huấn luyện Trung ương. Một lần, khi gặp các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương đang cùng ngồi làm việc về công tác đào tạo huấn luyện cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc: Phải đào tạo một đội ngũ cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành công.

Đồng chí Hoàng Xuân Thái, một lão thành cách mạng ở Hà Nội, nguyên là cán bộ ban huấn luyện Trung ương kể lại : Anh Thanh chỉ làm việc ở Ban một thời gian ngắn nhưng những vấn đề anh giải quyết đều là những vấn đề \"nóng bỏng\". Ổn định tổ chức, xây dựng và củng cố sự đoàn kết nhưng quan trọng nhất là việc điều chỉnh lại phương thức và tổ chức chương trình huấn luyện cán bộ.

Theo lời Bác Hồ dặn: \"Mở lớp nào cho ra lớp ấy. Lựa chọn người dạy và người - học cho cẩn thận.\" [1]. Mục tiêu đó đã được anh Thanh quán triệt đến từng cán bộ trong cơ quan. Với tác phong sâu sát, gần gũi vốn có, với trách nhiệm cao, anh nhanh chóng chiếm được lòng tin của các cán bộ. Những điều anh làm từ đó đều trở thành hành động chung cho toàn Ban.

Ngày 11-7-1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 122/SL bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Chí Thanh giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 9-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi chiến dịch Biên giới. Cùng đi có cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Nguyễn Chí Thanh và một số cán bộ cao cấp khác. Đây có thể được coi là chiến dịch đầu tiên ông tham gia với cương vị là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Khi đó ông mới tròn 36 tuổi.

Với cương vị là Uỷ viên Trung ương phụ trách công tác Lào - Miên, tháng 8/1950 đồng chí Nguyễn Chí Thanh đến dự Đại hội Đại biểu toàn quốc Mặt trận dân tộc thống nhất Lào Itxalạ. Ngày 25-12-1950, trong văn bản viết tay gửi lãnh đạo Mặt trận Lào đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã rất cụ thể chỉ ra những vấn đề quan trọng, những nội dung cần thiết trong định hướng và trong hoạt động thực tiễn. Nội dung văn bản viết tay này còn nêu lên những vấn đề mới đặt ra cho phong trào cách mạng Lào...

Đầu năm 1951, tại Đại hội II của Đảng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương với số phiếu tín nhiệm cao của đại biểu. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương, với trách nhiệm được giao ông đã tổ chức và triển khai thực hiện hàng loạt các vấn đề nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để từ đó tạo ra sức mạnh chiến đấu mới cho lực lượng vũ trang. Đặc biệt, Nguyễn Chí Thanh với sự nhạy cảm của một người có tư chất \"làm tướng\" bẩm sinh, ông rất chú trọng nâng cao bản chất cách mạng của quân đội nhân dân, đưa công tác chính trị - tư tường trong quân đội lên một tầm cao mới. Để làm tốt mục tiêu này, ông luôn suy nghĩ tìm tòi đến những biện pháp tốt nhất, phù hợp nhất để giải quyết mối quan hệ, tác động qua lại giữa: chính trị và quân sự, lãnh đạo và chỉ huy, đạo đức và tài năng của cán bộ chiến sĩ trong quân đội... Kết quả của sự cố gắng này đã góp phần tạo ra một bước chuyển biến mới trong nhận thức và hoạt động thực tiễn trong toàn quân. Từ đó, nâng cao dần sức mạnh chiến đấu của quân đội ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ.

Từ sau Hội nghị Giơnevơ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh phấn đấu vì mục tiêu: Giải phóng Miền Nam, bảo vệ Miền Bắc, thống nhất nước nhà, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã cùng tập thể Bộ Chính trị luôn hết sức mình đóng góp vào việc hoạch định đường lối và biện pháp thực hiện nhằm giữ vững lập trường bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng và của nhân dân. ông cũng luôn bình tĩnh, tự tin, khéo léo, cương quyết, sáng tạo và vận dụng hài hoà với thực tế. Ông sống rất tình nghĩa nhưng để đấu tranh với những quan điểm đi ngược lại với lợi ích của Đảng, của dân tộc thì vô cùng quyết liệt.

Trong cuộc sống riêng, ông luôn là một mẫu mực trong sáng, giản dị, khiêm tốn, gần gũi với gia đình. Là người chồng, người cha đầy trách nhiệm, ông luôn nhắc nhở con cái phải rèn luyện tốt, học tập tốt, chăm chỉ lao động. Trong gia đình đồng chí Nguyễn Chí Thanh mọi người đều cảm thấy rất gần gũi, yêu quí Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thời gian chưa đi chiến trường nhiều lần gia đình đã mời Bác đến nhà chơi, có khi giữ Bác lại ăn cơm. Những dịp đó cả nhà đều quây quần vui mừng trò chuyện với Bác, còn người phục vụ bếp ăn thì được dịp "trổ tài" nấu những món ăn Huế dân dã, bình dị, nhưng tinh tế để mời Bác.

Ngày 31-8-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 36/SL phong quân hàm cấp tướng cho 16 sĩ quan quân đội. Dự lễ phong quân hàm ngày 1-9-1959, Bác Hồ căn dặn: \"Dù ở cương vị nào chúng ta cũng đều phải cố gắng để xứng đáng là người đầy tớ trung thành và tận tuỵ của nhân dân”. [2] Thay mặt những đồng chí được phong quân hàm cấp tướng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã trân trọng hứa : luôn luôn làm đúng lời căn dặn của Bác, giữ vững lập trường trọn đời phục vụ nhân dân. Suốt cuộc đời của mình bao giờ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng giữ vững nguyên tắc lời nói đi đôi với việc làm. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 70 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã có bài viết "Học tập tinh thần phục vụ nhân dân vô điều kiện của Hồ Chủ tịch đăng trên báo Quân đội nhân dân số 737 ngày 19-5-1960 trong đó khẳng định: "Cảnh nước mất nhà tan đã thôi thúc Hồ Chủ Tịch ra đi làm cách mạng với tinh thần phục vụ nhân dân vô điều kiện làm tiêu chuẩn hành động và chiến đấu của mình. Cả cuộc đời của Hồ Chủ Tịch gắn liền với đời sống vật chất, tinh thần, năng lực, trí tuệ tình cảm của nhân dân... Người chỉ và chỉ nghĩ đến việc phục vụ nhân dân, sống như nhân dân, nói và viết như nhân dân và vì nhân dân". Đây là một trong những bài viết quan trọng của lực lượng vũ trang đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp này.

Từ năm 1961, trước yêu cầu mới cách mạng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh giữ cương vị Trưởng ban công tác Nông thôn trung ương [Ban Nông nghiệp Trung ương ngày nay]. Là người xuất thân từ nông dân, trưởng thành trong phong trào cách mạng, đã qua thử thách trong lao tù kẻ thù, bất kỳ ở cương vị nào Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vẫn luôn cố gắng kiên trì và phát huy những năng lực của mình. Một lần nữa ở cương vị mới này ông cũng rất thành công. ông đã thực sự gây dựng được niềm tin với nông dân, họ quý mến và gọi ông là \"Vị tướng của nông dân\". Khó khăn không làm ông sờn lòng, gian nan thử thách không làm ông khuất phục. Theo lời dặn của Bác, ông đã tìm đến những nhân tố điển hình trong sản xuất nông nghiệp để từ đó phát động phong trào thi đua trên mặt trận nông nghiệp: Đại Phong [Quảng Bình], Tòng Bạt [Sơn Tây]... mãi mãi còn ghi dấu ấn vị tướng của nhân dân Nguyễn Chí Thanh. Dân làng Tòng Bạt nhớ ơn Đảng, Bác Hồ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Họ đã đưa tượng Bác, tượng Nguyễn Chí Thanh về thờ cùng với hàng trăm liệt sĩ của làng. Ngày 9 Tết âm lịch hàng năm, làng mở hội tưởng nhớ công ơn của những người đã hi sinh trọn đời mình cho tổ quốc cho nhân dân, trong đó có dân làng họ.

Tại Hà Nội, tháng 3/1964 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt - Hội nghị Diên Hồng của thời đại Hồ Chí Minh lịch sử. Toàn Đảng toàn quân và toàn dân ta khẳng định quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Cả nước bừng lên một khí thế cách mạng mới. Ngày 25-26/9/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ toạ phiên họp toàn thể Bộ chính trị. Người phân tích những diễn biến mới trên chiến trường miền Nam và chủ trương: Trên quan điểm trường kỳ, động viên toàn Đảng, toàn dân tập trung mọi khả năng để giành một bước thắng lợi quyết định trong thời gian tới. Bác Hồ khẳng định: Miền Nam phải mở rộng chiến tranh du kích, xây dựng chủ lực, thành quả đấm mạnh, nhanh, gọn. Đặc biệt, Người còn lưu ý: Thời gian qua chưa tăng cường Uỷ viên Bộ Chính trị cho Miền Nam, nay tình hình cấp bách không đi không được. Tại Hội nghị, tập thể bộ chính trị nhất trí cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Uỷ viên Bộ Chính trị cùng một số tướng lĩnh quân đội có kinh nghiệm chỉ huy vào tăng cường cho chiến trường.

Tháng 10/1964, thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh lên đường đi B giữ cương vị phụ trách Trung ương Cục Miền Nam và Chính uỷ Quân uỷ Miền. Trong buổi chia tay với đoàn cán bộ trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Đánh Pháp đã khó, đánh Mỹ càng khó hơn. Đảng và Chính phủ giao cho các chú vào trong đó cùng với đồng bào Miền Nam đánh Mỹ cho kỳ được thắng lợi. Gặp đồng bào thì nói: Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến đồng bào Miền Nam [3]

Cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào chiến trường thể hiện quyết tâm và niềm tin của Bác Hồ, của tập thể Bộ Chính trị đối với vị tướng văn võ song toàn, một người con yêu quý của quê hương Thừa Thiên Huế.

Cũng từ đó cách mạng miền Nam trên đà những chiến thắng của Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài... liên tục và giòn giã, từ đó tạo ra những chuyển biến mới làm tiền đề cho các phong trào: “Tìm Mỹ mà đánh, tìm Nguỵ mà diệt\", \"Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh\"... Cách mạng miền Nam bước sang một cao trào mới phải đối phó với một chiến lược mới của Mỹ: Chiến lược chiến tranh cục bộ. Khẳng định quyết tâm thắng Mỹ, tháng 1/1965 Hội nghị Trung ương Cục miền Nam được triệu tập. Với lầm nhìn chiến lược, và biết gắn với thực tiễn chiến trường trên cơ sở tổng hợp phân tích, đúng đắn, khách quan, khoa học. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã chỉ đạo Hội nghị và đưa ra những quyết sách để thực hiện nhiệm vụ chiến lược của cách mạng miền Nam trong tình hình mới.

Đặc biệt tại Hội nghị này, một lần nữa nhân dân miền Nam khẳng định và nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trên thực tế của cục diện chiến trường lúc này, ta thấy những lời căn dặn, chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Bộ Chính trị đã được quán triệt sâu sắc từ cơ quan Trung ương Cục đến các cơ sở và đã được cụ thể bằng những kế hoạch hành động. Đồng thời trên các phương tiện thông tin báo chí lúc đó đã đăng hàng loạt các bài viết của đại tướng Nguyễn Chí Thanh với các bút danh Trường Sơn, Người quan sát S.K.Z như: Chuẩn bị đập tan âm mưu Mỹ [27/11/1964]; Ai thắng ai thua [22/12/1964]; Hoan hô chiến thắng Pleiku, Bình Giã, Phú Mỹ, Quảng Nam [11/2/1965]; Phát huy cao độ Chủ nghĩa anh hùng cách mạng quyết thắng giặc Mỹ [4/1965]; Đập tan âm mưu chiến lược của Giôn Sơn ở miền Nam Việt Nam [21/7/1965]... Các bài viết của Đại tướng Nguyễn chí Thanh không chỉ phân tích sâu sắc cục diện thắng lợi của chiến trường miền Nam, khẳng định quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ của nhân dân Việt Nam làm nức lòng nhân dân hai miền Nam Bắc, mà khi được phát bằng tiếng nước ngoài ra thế giới cũng làm bạn bè quốc tế chú ý theo dõi và vô cùng phấn khởi.

Cuối năm 1966, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Đảng ta, đại tướng Nguyễn Chí Thanh trở ra Bắc để cùng bộ Chính trị họp bàn chuẩn bị cho mộtthời kỳ mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Tết nguyên đán năm 1967, như thường lệ, Bác Hồ tổ chức ăn Tết cho cán bộ cơ quan Phủ Chủ tịch. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cùng tham dự. Không ai nghĩ đấy lại là lần tết cuối cùng Đại tướng vui tết cùng cơ quan Bác Hồ. Cuối tháng 6 năm 1967, công việc chuẩn bị đã xong, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã sẵn sàng trở lại chiến trường. Nếu như...

Đã có nhiều hồi ký, hồi ức về những ngày cuối cùng của ông. Ở đây chúng tôi chỉ xin nhắc đến những thời điểm không thể nào quên:

- Ngày 3/7/1967, lúc 17h, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cơm đại tướng Nguyễn Chí Thanh, cùng dự có cả Thủ tướng Phạm Văn đồng vừa ăn cơm vừa bàn công việc.

- Ngày 5/7/1967, Bác cùng đại tướng ăn cơm trưa. Sau đó lúc 19h30, đại tướng Nguyễn Chí Thanh quay lại nhà sàn. Bác đã đi nghỉ. Đại tướng vào tận nơi chào để sáng mai đi sớm. Khi chia tay ông cứ nấn ná hoài có ý như lo sức khoẻ Bác không tốt và sợ lần sau ra sẽ không được gặp Bác... Mọi người kể lại rằng hôm đó Đại tướng mặc bộ quần áo quân phục màu cỏ úa.

- Ngày 6/7/1967, từ sáng sớm tin Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị tắc động mạch vành tim đã phải mổ cấp cứu lúc 3 giờ. 6giờ30, Bác nhắc đồng chí giúp việc hỏi tin của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Mọi người đã chuyển thuốc dự phòng của Bác sang để cấp cứu Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Lúc 9 giờ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang nhà sàn báo tin Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị ốm chưa đi công tác được. Thực ra lúc đó ở bệnh viện Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã từ trần. Sợ Bác quá xúc động nên không dám báo tin ngay. Lúc 16 giờ cùng ngày, đồng chí Lê Đức Thọ sang nhà sàn báo tin chính thức Đại tướng Nguyên Chí Thanh đã từ trần. Bác Hồ như lặng đi. 20 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang viếng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh lúc đó đang được quàn tại Bệnh viện 108. Cũng trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 75/LCT truy tặng Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Hồ Chí Minh cho Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.

Ngày 7/7/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến đặt vòng hoa viếng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tại Câu lạc bộ Quân nhân. Hình ảnh trong phim tư liệu còn giữ được cảnh Bác đang lau nước mắt khi đứng trước nơi quàn thi hài.

Ngày 8/7/1967, lúc 10 giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đồng chí giúp việc đến thăm gia đình Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.

Ngày 11/7/1967 Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm gia đình Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Lúc 18 giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh mời gia đình Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đến nhà sàn. Bà cụ thân sinh ra Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bà Nguyễn Thị Cúc vợ của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cùng 4 người con là Nguyễn Thanh Hà; Nguyễn Kim Sơn; Nguyễn Thị Thành và con trai út Nguyễn Chí Vĩnh lúc đó mới 10 tuổi đã đến ăn cơm với Bác ..

Từ đó hàng năm lúc sinh thời những dịp giỗ, dịp tết bao giờ Bác cũng nhắc hoặc mời, hoặc đến thăm gia đình. Nhiều lần, Bác đã mời cả nhà Đại tướng đến gặp gỡ và thăm hỏi. Qua các cán bộ giúp việc Bác nhắc phải theo dõi sự tiến bộ, trưởng thành của các con cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Việc này Bác không chỉ nhắc riêng với gia đình Đại tướng mà còn nhắc quan tâm chung đến tất cả vợ con của các cán bộ đã hi sinh hoặc đang chiến đấu tại chiến trường miền Nam, trong phạm vi bài viết này chúng tôi không có điều kiện để nhắc đến. Tấm lòng của Bác thật bao la như biển rộng trời cao.

Cho đến nay Đại tướng Nguyễn Chí Thanh người con yêu quý của nhân dân Thừa Thiên Huế đã vĩnh biệt chúng ta gần 40 năm nhưng tấm gương của ông, cuộc đời của ông vẫn sống mãi trong lòng nhân dân Thừa Thiên Huế và nhân dân Việt Nam. Tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nhân dân Thừa Thiên Huế nói chung và với Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nói riêng lúc sinh thời đã và đang vẫn là một trong những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để từ đó rút ra những bài học cần thiết, bổ ích cho cuộc sống hôm nay.

Thạc sỹ Nguyễn Thị Thu Hà -

Bảo tàng Hồ Chí Minh Hà Nội

Chú thích:

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, tr52-53

[2] HCM toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, trang 496

[3] Tư liệu Viện lịch sử Đảng

Nguồn: Hội thảo Khoa học “Thời thanh niên của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Góp ý chỉnh lý nội dung và giải pháp trưng bày Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế”. Hà Nội, tháng 10 năm 2003.

Video liên quan

Chủ Đề