Nguyên nhân quy trinh cho vay qua phuc tap

Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ-tín dụng, loại hình kinh doanh chứa đựng nguy cơ rủi ro cao, trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, kinh doanh tín dụng mang lại nguồn lợi nhuận lớn nhất. Tuy nhiên, những rủi ro tín dụng cũng gây thiệt hại khôn lường thậm chí làm phá sản ngân hàng.

Nguyên nhân quy trinh cho vay qua phuc tap

>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự, gọi: 1900.6162

Theo A.Saunders và H.Lange thì “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về số lượng và thời hạn”.Còn với Timothy W.Koch cho rằng: “Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và giá trị của vốn xuất phát từ việc vốn vay không được thanh toán hay thanh toán trễ hạn”.

Tuy có rất nhiều các khái niệm khác nhau về rủi ro tín dụng nhưng có thể tổng hợp lại như sau: “Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách  hàng không trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc nói một cách cụ thể hơn, thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét  cả về mặt giá trị và thời hạn”.

1.2 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng

Có thể nói rủi ro tín dụng rất đa dạng và nó liên quan đến toàn bộ quá trình tín dụng của ngân hàng với khách hàng và nền kinh tế. Chính vì lẽ đó nguyên nhân rủi ro tín dụng cũng nhiều và đa dạng như: rủi ro thị trường (giá cả hàng hóa biến động, tỷ giá biến động…); rủi ro từ phía khách hàng (do dự án, phương án kinh doanh kém hiệu quả, không khả thi…); rủi ro do môi trường (kinh tế, pháp lý); rủi ro từ phía ngân hàng mang yếu tố kỹ thuật và yếu tố con người: rủi ro nghiệp vụ, rủi ro giao dịch…Tuy nhiên, theo đánh giá chung nhất thì có các nguyên nhân chính sau:

1.2.1 Do yếu tố nguồn nhân lực

Yếu tố nguồn nhân lực là một trong nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng thể hiện qua các mặt sau:

Trình độ nghiệp vụ và năng lực của cán bộ tín dụng hạn chế: Chính sự hạn chế về năng lực và trình độ nghề nghiệp là kết quả của những quyết định cho vay không đúng, quyết định đầu tư vào những phương án, dự án kinh doanh kém hiệu quả. Sự hạn chế này trong quá trình thẩm định và quyết định cho vay, quá trình phân tích và đánh giá khách hàng, đánh giá doanh nghiệp đã dẫn đến đầu tư sai và dẫn đến rủi ro tín dụng. Mặt khác, khả năng phân tích dự án của cán bộ tín dụng còn hạn chế, nhất là các dự án kinh tế lớn có thời gian đầu tư dài đòi hỏi khả năng phân tích, đánh giá và dự báo tốt với nhiều yếu tố, chỉ tiêu kinh tế xã hội có liên quan đến khả năng thực hiện và tính khả thi của dự án.

đạo đức của cán bộ tín dụng: Phẩm chất đạo đức cán bộ tín dụng là vấn đề cần đặc biệt quan tâm, nó đã và đang là nguyên nhân thuộc yếu tố nguồn  nhân lực dẫn đến rủi ro tín dụng, với mức độ tác động ảnh hưởng là rất lớn.

1.2.2 Yếu tố kỹ thuật

yếu tố này thể hiện những hạn chế trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, công tác kiểm soát nội bộ, quy trình và thủ tục tín dụng cũng như chính sách tín dụng của ngân hàng, cụ thể:

- Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng chủ yếu dựa trên hệ thống cơ chế chính sách tín dụng, các quy trình về cho vay đảm bảo an toàn tín dụng. Tuy nhiên, trong công tác quản trị rủi ro tín dụng việc tuân thủ các quy trình cũng chưa được thực hiện một cách triệt để, không tuân thủ đúng các quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng. Ngoài ra, hệ thống thông tin không được trang bị đủ để phục vụ trong công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro.

- Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa cao, việc chấp hành các quy định của NHTW về an tòan vốn, tín dụng, bảo lãnh tại một số NHTM chưa được chấp hành đầy đủ, công tác tổ chức, quản lý cán bộ tín dụng còn bất cập

- đối với chính sách tín dụng: chính sách tín dụng không hợp lý, đầu tư tín dụng nhiều vào dự án lớn, tỷ trọng cho vay trung dài hạn cao trong khi đó nguồn vốn dài hạn thấp, tập trung cho vay nhiều vào một loại thành phần kinh tế, chính sách tín dụng quan tâm quá mức đến vấn đề tài sản đảm bảo nợ vay, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận và muốn phát triển nhanh, không cân xứng với thực lực ngân hàng, không có được những giải pháp đúng và không có được những quy định kịp thời để xử lý những trường hợp cho vay có dấu hiệu của một khoản cho vay kém an toàn. Chính sách tín dụng không phù hợp với các điều kiện thực tiễn, thiếu một quy chế đầy đủ, chặt chẽ để đảm bảo an toàn khi cho vay.

1.2.3 Yếu tố thị trường, yếu tố khách hàng

- Yếu tố thị trường: Việc biến động của giá cả, đặc biệt là giá cả hàng hóa chủ lực, nguyên nhiên liệu đầu vào như sắt thép, xăng dầu…tác động ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai dự án, đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng và gây ra rủi ro tín dụng. Mặt khác, những diễn biến phức tạp của thị trường hàng hóa, thị trường xuất khẩu, là nguyên nhân tiềm ẩn, chứa đựng rủi ro đối với hoạt động tín dụng.

- Yếu tố khách hàng: Do khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiền vay không có tác dụng thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến doanh nghiệp vay vốn làm ăn kém hiệu quả, nợ phải trả tăng trong đó có nợ vay ngân hàng. Ngoài ra, phần lớn những nguyên nhân dẫn đến khoản cho vay kém và mất an toàn bắt nguồn từ tình trạng mất khả năng trả nợ của khách hàng, khả năng trả nợ bị suy yếu hoặc không còn khả năng, nguyên nhân có thể do: năng lực và trình độ quản lý yếu kém; Thiếu vốn hoặc tỷ trọng vốn vay quá lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động; Công nghệ sản xuất lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Thêm vào đó, bản thân doanh nghiệp thiếu ý thức trong vấn đề trả nợ, không lo lắng, không quan tâm đến nợ ngân hàng mặc dù khả năng tài chính của doanh nghiệp có.

1.2.4 Môi trường kinh tế, pháp lý

- Môi trường kinh tế không thuận lợi (chịu tác động của các nhân tố như thay đổi chính sách của Chính Phủ, chỉ số cán cân thanh toán, hoạt động đầu tư nước ngoài, giá trị của đồng bản tệ, lãi suất, mối quan hệ giữa các ngành công nghiệp, phản ứng và hành động của người tiêu dùng); Chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp (chịu sự tác động bởi những thành tựu công nghệ, mức độ cạnh tranh, chính sách của Chính Phủ, những điều luật mới về sở hữu, cầm cố và thế chấp tài sản…hoặc những quy định mới có thể đe dọa sự tồn tại của doanh nghiệp, sự thay đổi quan điểm và sở thích của người tiêu dùng)

- Tình hình kinh tế thế giới có thể ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng như: biến động của giá vàng thế giới, giá một số ngoại tệ mạnh hoặc giá một số vật tư chủ yếu có xu hướng tăng cao

2. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế:

Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân. Vì vậy, khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng dẫn đến bị phá sản thì người gởi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) và cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan.

Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối thu chi, khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả. Khi gặp rủi ro tín dụng ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gởi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, bị cấp trên khiển trách. đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền trả lương  cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gặp khó khăn cho ngân hàng.

Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ mà mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.