Thanh là gì trong tiếng Việt

Thanh điệu [tiếng Anh: tone] là độ trầm, bổng của giọng nói trong một âm tiết có tác dụng cấu tạo và khu biệt vỏ âm thanh của từ và hình vị. Sự khác nhau cà và cá là sự khác nhau về thanh điệu: âm tiết cá được phát âm cao, âm tiết cà được phát âm thấp.

Hầu hết các ngôn ngữ ở châu Phi cận Sahara đều có thanh điệu, ngoại trừ tiếng Swahili ở phía đông và tiếng Wolof, tiếng Fulani ở phía tây. Nhóm ngôn ngữ Tchad, nhóm ngôn ngữ Omo và một số nhánh mở rộng của nhóm ngôn ngữ Cushit thuộc ngữ hệ Phi-Á là những ngôn ngữ có thanh điệu trong khi các ngôn ngữ chị em của chúng như nhóm ngôn ngữ Semit, nhóm ngôn ngữ Berber và tiếng Ai Cập thì không có thanh điệu.

Một số ngôn ngữ ở Đông Á và Đông Nam Á có thanh điệu, bao gồm tất cả các dạng Trung Quốc , tiếng Việt, tiếng Thái và tiếng Lào. Một số ngôn ngữ Đông Á như tiếng Myanma, tiếng Hàn và tiếng Nhật có hệ thống thanh điệu đơn giản hơn. Tuy nhiên, một số ngôn ngữ trong vùng này hoàn toàn không có thanh điệu như tiếng Mông Cổ, tiếng Khmer và tiếng Mã Lai. Trong số nhóm ngôn ngữ Tây Tạng, tiếng Trung Tạng [gồm các phương ngữ ở thủ phủ Lhasa] và tiếng Tạng Kham thì có thanh điệu, ngược lại tiếng Tạng Amdo và tếng Ladakh thì không có.

Một số ngôn ngữ bản địa ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ có thanh điệu, như nhóm ngôn ngữ Athabaska ở Alaska và đông nam Hoa Kỳ [bao gồm tiếng Navajo], và đặc biệt là ngữ hệ Oto-Mangue ở Mexico. Ngữ hệ Maya hầu hết không có thanh điệu, trừ tiếng Maya Yucatec [có số người nói lớn nhất], tiếng Uspantek và một phương ngữ của tiếng Tzotzil có hệ thống thanh điệu đơn giản.

Tại châu Âu, tiếng Na Uy, tiếng Thụy Điển, tiếng Latvia, tiếng Litva, tiếng Serbo-Croatia, một số phương ngữ của tiếng Slovenia và tiếng Limburg có hệ thống thanh điệu đơn giản. Các ngôn ngữ Ấn-Âu có thanh điệu khác, được nói ở tiểu lục địa Ấn Độ là tiếng Punjab, tiếng Lahnda, và nhóm ngôn ngữ Tây Pahar[1][2][3][4].

Các ngôn ngữ có thanh điệu bao gồm:

  • Một số ngôn ngữ Hán-Tạng, trong đó hầu hết là những ngôn ngữ quan trọng. Một số dạng tiếng Trung có thanh điệu phức tạp [ngoại trừ tiếng Thượng Hải]; trong khi một số ngôn ngữ Tạng như tiếng Tạng Lhasa chuẩn, và tiếng Bhutan có thanh điệu đơn giản. Tuy nhiên, tiếng Nepal Bhasa, ngôn ngữ gốc ở Kathmandu, thì không có thanh điệu, giống như một số phương ngữ Tây Tạng và nhiều ngôn ngữ Tạng-Miến khác.
  • Trong ngữ hệ Nam-Á, tiếng Việt và ngôn ngữ khác trong ngữ chi Việt thì có hệ thống thanh điệu phức tạp. Các ngôn ngữ khác của ngữ hệ này như tiếng Môn, tiếng Khmer và các ngôn ngữ Munda thì không có thanh điệu.
  • Toàn ngữ hệ Tai-Kradai, được sử dụng chủ yếu ở Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan và Lào, thì có hệ thống thanh điệu phức tạp.
  • Ngữ hệ H'Mông-Miền có hệ thống thanh điệu phức tạp.
  • Nhiều ngôn ngữ Phi-Á thuộc nhóm ngôn ngữ Tchad, Cushit và Omo có hệ thống thanh điệu đơn giản, như tiếng Hausa ở Tchad. Nhiều ngôn ngữ Omo khá phức tạp về thanh điệu. Tuy nhiên nhiều ngôn ngữ trong các ngôn ngôn ngữ nêu trên như tiếng Somali của nhóm ngôn ngữ Cushit không có thanh điệu.
  • Đa phần ngữ hệ Niger-Congo như tiếng Ewe, tiếng Igbo, tiếng Lingala, tiếng Maninka, tiếng Yoruba và tiếng Zulu, có hệ thống thanh điệu đơn giản. Nhóm ngôn ngữ Kru có hệ thống thanh điệu kín. Các ngôn ngữ Niger-Congo không thanh điệu đáng chú ý gồm tiếng Swahili, tiếng Fula và tiếng Wolof.
  • Hầu như tất cả ngôn ngữ Nin-Sahara có hệ thống thanh điệu đơn giản.
  • Tất cả các ngôn ngữ Khoisan ở Nam Phi có hệ thống thanh điệu kín.
  • Gần một nửa nhóm ngôn ngữ Athabaska, như tiếng Navajo, có hệ thống thanh điệu đơn giản [các ngôn ngữ ở California, Oregon, một số ở Alaska]
  • Ngữ hệ Iroquois có thanh điệu, như tiếng Mohawk có ba thanh.
  • Tất cả các ngôn ngữ Oto-Manguea có thanh điệu.

Tiếng Việt sử dụng bảng chữ cái Latin và có sáu thanh điệu được ghi bằng các dấu thanh đặt trên hoặc dưới nguyên âm chính: huyền, ngã, hỏi, sắc, nặng và không dấu [tức không có dấu nào cả]. Việc đặt dấu thanh đối với các từ sử dụng âm đệm w kết hợp với nguyên âm i [được viết là uy] đồng thời không có phụ âm cuối hiện đang còn gây tranh cãi.

  • Mai Ngọc Chủ, Vũ Đức Thiệu, Hoàng Trọng Phiên, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, 2006
  • Bao, Zhiming. [1999]. The structure of tone. New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-511880-4.
  • Chen, Matthew Y. 2000. Tone Sandhi: patterns across Chinese dialects. Cambridge, England: CUP ISBN 0-521-65272-3
  • Clements, George N.; Goldsmith, John [eds.] [1984] Autosegmental Studies in Bantu Tone. Berlin: Mouton de Gruyer.
  • Fromkin, Victoria A. [ed.]. [1978]. Tone: A linguistic survey. New York: Academic Press.
  • Halle, Morris; & Stevens, Kenneth. [1971]. A note on laryngeal features. Quarterly progress report 101. MIT.
  • Haudricourt, André-Georges. [1954]. De l'origine des tons en vietnamien. Journal Asiatique, 242: 69-82.
  • Haudricourt, André-Georges. [1961]. Bipartition et tripartition des systèmes de tons dans quelques langues d'Extrême-Orient. Bulletin de la Société de Linguistique de Paris, 56: 163-180.
  • Hombert, Jean-Marie; Ohala, John J.; Ewan, William G. [1979]. “Phonetic explanations for the development of tones”. Language. 55 [1]: 37–58. doi:10.2307/412518.
  • Hyman, Larry. 2007. There is no pitch-accent prototype. Paper presented at the 2007 LSA Meeting. Anaheim, CA.
  • Hyman, Larry. 2007. How [not] to do phonological typology: the case of pitch-accent. Berkeley, UC Berkeley. UC Berkeley Phonology Lab Annual Report: 654-685. Available online.
  • Kingston, John. [2005]. The phonetics of Athabaskan tonogenesis. In S. Hargus & K. Rice [Eds.], Athabaskan prosody [pp. 137–184]. Amsterdam: John Benjamins Publishing.
  • Maddieson, Ian. [1978]. Universals of tone. In J. H. Greenberg [Ed.], Universals of human language: Phonology [Vol. 2]. Stanford: Stanford University Press.
  • Michaud, Alexis. [2008]. Tones and intonation: some current challenges. Proc. of 8th Int. Seminar on Speech Production [ISSP'08], Strasbourg, pp. 13–18. [Keynote lecture.] Available online.
  • Odden, David. [1995]. Tone: African languages. In J. Goldsmith [Ed.], Handbook of phonological theory. Oxford: Basil Blackwell.
  • Pike, Kenneth L. [1948]. Tone languages: A technique for determining the number and type of pitch contrasts in a language, with studies in tonemic substitution and fusion. Ann Arbor: The University of Michigan Press. [Reprinted 1972, ISBN 0-472-08734-7].
  • Wee, Lian-Hee [2008]. “Phonological Patterns in the Englishes of Singapore and Hong Kong”. World Englishes. 27 [3/4]: 480–501. doi:10.1111/j.1467-971X.2008.00580.x.
  • Yip, Moira. [2002]. Tone. Cambridge textbooks in linguistics. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-77314-8 [hbk], ISBN 0-521-77445-4 [pbk].

  1. ^ Barbara Lust, James Gair. Lexical Anaphors and Pronouns in Selected South Asian Languages. Page 637. Walter de Gruyter, 1999. ISBN 9783110143881.
  2. ^ [1]
  3. ^ Phonemic Inventory of Punjabi
  4. ^ Geeti Sen. Crossing Boundaries. Orient Blackswan, 1997. ISBN 9788125013419. Page 132. Quote: "Possibly, Punjabi is the only major South Asian language that has this kind of tonal character. There does seem to have been some speculation among scholars about the possible origin of Punjabi's tone-language character but without any final and convincing answer."

  • World map of tone languages The World Atlas of Language Structures Online
  • Thanh ngang [không dấu]
  • Thanh huyền
  • Thanh sắc
  • Thanh hỏi
  • Thanh ngã
  • Thanh nặng

Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thanh_điệu&oldid=67743042”

So với các ngôn ngữ có thanh điệu thì tiếng Việt là ngôn ngữ có nhiều thanh điệu nhất – 6 thanh. Người nước ngoài khi nói tiếng Việt thường cảm thấy người Việt không hiểu mình là do họ phát âm thanh điệu chưa chính xác. Sau đây iVina sẽ giúp bạn phân biệt được sáu thanh điệu trong tiếng việt để bạn có thể nghe,  nói,  đọc , viết một cách dễ dàng hơn.

– Thanh điệu là một loại âm vị siêu đoạn tính, có tác dụng làm thay đổi ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. Thanh điệu được thể hiện cùng với toàn bộ âm tiết, hay đúng hơn là toàn bộ phần thanh tính của âm tiết. Tiếng Việt là một thứ tiếng có khá nhiều thanh điệu: 6 thanh điệu, trong khi có một số ngôn ngữ chỉ có 3 hoặc 4 thanh điệu.

– Thanh điệu là một yếu tố thể hiện độ cao và sự chuyển biến của độ cao trong mỗi âm tiết. Mỗi âm tiết tiếng Việt nhất thiết phải được thể hiện với một thanh điệu. Thanh điệu có chức năng phân biệt vỏ âm thanh, phân biệt nghĩa của từ.

– Thanh điệu trong tiếng việt gồm có sáu thanh: ngang, huyền, ngã, hỏi, sắc, nặng

Có thể có 4 cách phân loại thanh điệu: xét về cao độ, xét về đường nét âm điệu, xét về sự biến thiên của thanh điệu và xét về động tác nghẽn thanh hầu.
Tuy nhiên, đối với việc phân biệt ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ, ta chỉ cần ghi nhớ hai tiêu chí đầu. Đó là:

– Tiêu chí cao độ:

Thanh điệu tiếng Việt đối lập nhau ở hai cao độ cơ bản: cao độ cao và cao độ thấp. Đó là sự đối lập về âm vực. Theo tiêu chí này ta phân biệt:

+ Thanh điệu cao, tức là những thanh điệu được phát âm ở âm vực cao. Loại này bao gồm các thanh: thanh ngang, thanh sắc, thanh ngã.

+ Thanh điệu thấp, tức là những thanh điệu được phát âm ở âm vực thấp. Đó là các thanh: thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặng.

– Tiêu chí âm điệu:

Trên mỗi âm vực, các thanh điệu còn khác nhau về quá trình diễn biến của cao độ theo thời gian. Đó là sự khác nhau về đường nét âm điệu. Theo tiêu chí này, ta phân biệt:

+ Thanh điệu bằng phẳng [còn gọi là thanh bằng]. Đây là những thanh điệu mà khi thể hiện, đường nét âm điệu diễn biến bằng phẳng, đồng đều từ đầu đến cuối, không có sự lên xuống bất thường. Đó là các thanh: thanh huyền và thanh ngang.

+ Thanh điệu không bằng phẳng [cũng còn gọi là thanh trắc]. Đây là những thanh điệu có âm điệu diễn biến phức tạp, khi lên khi xuống, thể hiện ra bằng một đường nét không bằng phẳng: thanh sắc, thanh ngã, thanh hỏi, thanh nặng.

– Thanh 1: Thanh ngang [không được ghi trên chữ viết nên cũng gọi là thanh không dấu], xuất hiện trong tất cả các âm tiết, trừ âm tiết khép. Ví dụ: cây cam, mưa xuân, công ti. Nhưng không thể có các âm tiết như: lach, bat, lac…

– Thanh 2: Thanh huyền [ghi bằng dấu huyền [ ` ]], thấp hơn thanh ngang một bậc. Giống như thanh 1, thanh này có thể xuất hiện trong các âm tiết không phải là âm tiết khép, ví dụ: cà, sàn, bằng, đàm.

– Thanh 3: Thanh ngã [ghi bằng dấu ngã [  ]] là thanh điệu thuộc âm vực cao [bắt đầu thấp hơn và kết thúc cao hơn], có thêm động tác nghẽn thanh hầu.
Thanh ngã cũng không thể xuất hiện trong các âm tiết khép. Ví dụ: xã, mãn nhãn, sững sờ.

– Thanh 4: Thanh hỏi [ghi bằng dấu hỏi [ ? ]] là thanh điệu thuộc âm vực thấp. Khi phát âm, điểm bắt đầu và kết thúc thanh điệu đều ở âm vực thấp.
Thanh này xuất hiện trong tất cả các âm tiết không phải là âm tiết khép. Ví dụ: vả lại, hỏi han, cảm cúm, cảng biển, cảnh đẹp.

– Thanh 5: Thanh sắc [ghi bằng dấu sắc [  ]] là thanh điệu thuộc âm vực cao. Khi phát âm, điểm xuất phát thấp hơn thanh ngang một chút và điểm kết thúc ở âm vực cao. Ngoài ra, khi kết thúc còn phải có thêm động tác nghẽn thanh hầu.
Thanh này có thể xuất hiện trong tất cả các kiểu âm tiết. Ví dụ: khá lớn, bí quyết, chính thức, sáng sớm.

– Thanh 6: thanh nặng [ghi bằng dấu nặng [ . ]], là thanh điệu thuộc âm vực thấp. Khi phát âm, điểm xuất phát gần với độ cao xuất phát của thanh huyền nhưng kết thúc đột ngột ở độ cao thấp hơn.
Thanh nặng xuất hiện ở tất cả các kiểu âm tiết. Ví dụ: lạ đời, chợ xuân, lợi ích, lạm dụng, trục trặc, bẹp ruột.

[nguồn: trang chuyên ngôn ngữ học //ngnnghc.wordpress.com/tag/thanh-diệu-tiếng-việt/ ]

Video liên quan

Chủ Đề