Thuận lợi trong nghiên cứu khoa học

bởi quản trị viên | Ngày đăng: 19-04-2021

Chắc chắn hiện nay không ít các bạn sinh viên luôn thắc mắc là tại sao sinh viên luôn được nhà trường và khoa chuyên môn khuyến khích nên tham gia các dự án nghiên cứu khoa học ?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết phải hiểu nghiên cứu khoa học là gì ?

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC [NCKH]

Có thể hiểu đơn giản NCKH là một dự án nhóm. Dự án này giúp các bạn sinh viên có thể vận dụng vận dụng và thực hành lý thuyết đã và đang được học để giải quyết các vấn đề trong thực tế dưới sự hướng dẫn của các giảng viên. Do đó, việc thực hiện các đề tài NCKH giúp cho các bạn sinh viên thu được thêm rất nhiều kiến thức, kinh nghiệm trong quãng thời gian còn là sinh viên.

Sinh viên NCKH là một trong những phương thức học tập hiệu quả nhất hiện nay, bởi trong quá trình nghiên cứu, sinh viên có thể tiếp cận kiến thức lý luận và kiến thức thực tiễn thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau: qua bài giảng trên lớp, nghiên cứu tài liệu, sách, báo trên Internet, hoặc các sản phẩm thực tiễn trong cuộc sống… qua đó tạo cho mình cách học tập khoa học và khơi gợi khả năng sáng tạo. Có thể khẳng định rằng, sinh viên tham gia NCKH sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho bản thân.

NHỮNG LỢI ÍCH CHUNG CHO SINH VIÊN TỪ VIỆC THAM GIA NCKH

Thứ nhất, NCKH không những giúp sinh viên nắm chắc kiến thức mà còn tiếp cận nhiều hơn kiến thức mới

Mỗi sinh viên thi tham gia NCKH đều đòi hỏi phải có nền tảng kiến thức cơ bản, nhưng không chỉ dừng lại ở các kiến thức đó, trong quá trình nghiên cứu còn đòi hỏi người nghiên cứu không ngừng bổ sung, hoàn thiện kiến thức của mình. Do đó việc tìm kiếm và đọc thêm các tài liệu bổ trợ là cần thiết. Điều này tạo cho sinh viên kỹ năng nghiên cứu và kiến thức phục vụ cho đề tài của mình sẽ tăng lên. Đồng thời, các bạn có cơ hội được làm việc cùng với giảng viên hướng dẫn nên sẽ được định hướng và chỉ dẫn thấu đáo hơn đối với các vấn đề nghiên cứu.

Thứ hai, NCKH giúp sinh viên phát triển và rèn luyện các kỹ năng tư duy sáng tạo, làm việc độc lập và làm việc theo nhóm

Khi tham gia nghiên cứu khoa học, sinh viên sẽ được tiếp cận với những vấn đề cụ thể, có ý thức đào sâu suy nghĩ và tập cách tư duy để tự nghiên cứu giải quyết một vấn đề. Trong quá trình thực hiện đề tài sinh viên sẽ nảy sinh ra nhiều hướng giải quyết khác nhau. Quá trình này sẽ giúp sinh viên rèn luyện tư duy độc lập, biết bảo vệ lập trường khoa học của mình. Đối với đề tài khoa học do một nhóm từ hai sinh viên trở lên cùng thực hiện thì việc cùng thực hiện một đề tài nghiên cứu cũng giúp sinh viên phát triển các kỹ năng làm việc theo nhóm với sự chia sẻ ý thức và trách nhiệm, thêm vào đó là biết phân công công việc phù hợp với khả năng và sở trường của từng thành viên.

Thứ ba, phát triển và rèn luyện kĩ năng mềm trong đó có kỹ năng thuyết trình để bảo vệ đề tài nghiên cứu của mình

Bên cạnh đó, việc thực hiện và bảo vệ một đề tài nghiên cứu khoa học sẽ rèn giũa cho sinh viên kỹ năng diễn đạt, trình bày một vấn đề, kỹ năng thuyết trình, tập cho sinh viên phong thái tự tin khi bảo vệ trước hội đồng khoa học.  Đây cũng là trải nghiệm rất quý báu và thú vị mà không phải bất kỳ sinh viên nào cũng có được trong quãng đời sinh viên của mình.

Thứ tư, cải thiện tiếng Anh chuyên ngành

Khi tham gia dự án NCKH, các bạn sinh viên sẽ được cải thiện thêm tiếng Anh chuyên ngành, có kinh nghiệm trong việc đọc, tìm tài liệu, cách trích dẫn tài liệu, tổng hợp phân tích báo cáo. Những điểm thuận lợi này cũng giúp sinh viên nâng cao kỹ năng viết chuyên đề, viết luận văn tốt nghiệp và những kỹ năng viết báo cáo khi đi làm.

Thứ năm, thiết lập thêm các mối quan hệ mới

NCKH tạo môi trường để mở rộng mối quan hệ với bạn bè, anh chị, thầy cô trong Khoa, Trường và các tổ chức, cơ quan bên ngoài xã hội. Nắm trong tay những mối quan hệ tốt đẹp đó cũng là một lợi thế, để sinh viên có thể học hỏi, mở mang tầm kiến thức đa đạng và phong phú hơn… Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho sinh viên khi xin việc sau này.

 Thứ sáu, xây dựng hành trang cho mình bằng những thành tích đạt được và cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp

Bên cạnh những kiến thức và kinh nghiệm thu được thông qua việc nghiên cứu khoa học, sinh viên còn tạo dựng được những thành tích tốt trong quá trình học tập. Đồng thời, những đề tài đạt giải được Khoa, nhà trường và các tổ chức trong xã hội khen thưởng. Đây cũng là cách thức giúp xây dựng hành trang trước khi tốt nghiệp của mình. Với những thành tích đạt được trong quá trình học tập, những sinh viên tích cực NCKH sẽ được các tổ chức, doanh nghiệp để ý đến và tạo cơ hội việc làm ưu tiên là điều đương nhiên.

LỢI ÍCH TĂNG THÊM KHI NCKH TẠI KHOA XUẤT BẢN, PHÁT HÀNH

Những lợi ích ở trên là những lợi ích chung nhất cho sinh viên khi nghiên cứu khoa học, còn nếu sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học tại khoa Xuất bản, Phát hành thì ngoài những lợi ích kể trên thì các bạn còn được Khoa xét thưởng 3 đến 5 triệu đồng/đề tài [ bên cạnh kinh phí trường cấp là 5 triệu/đề tài] và được Khoa hỗ trợ sử dụng một số phương tiện, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu. Nhằm giúp sinh viên đạt được kết quả cao nhất trong quá trình thực hiện đề tài, Khoa cũng tổ chức các buổi hướng dẫn kỹ năng NCKH, quy trình nghiên cứu, thực hành phân tích dữ liệu trên phần mềm SPSS, kỹ năng viết báo cáo và thuyết trình giúp cho sinh viên có đầy đủ nhận thức về hoạt động nghiên cứu khoa học, tiếp cận phương pháp và kỹ năng triển khai thực hiện đề tài.

Hơn nữa, sau khi hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình, các em sẽ được Khoa ưu tiên tham dự các hội nghị, hội thảo khoa học; ưu tiên xét cấp học bổng, xét các danh  hiệu thi đua và hình thức khen thưởng nếu có thành tích trong NCKH; tính điểm rèn luyện sinh viên và cấp Giấy chứng nhận NCKH của Khoa Xuất bản, Phát hành [khi xin việc, hồ sơ của sinh viên sẽ được đánh giá cao hơn nếu có giấy chứng nhận này]. Đối với những đề tài có tính khoa học cao, ứng dụng trong thực tiễn sẽ được phát triển bồi dưỡng thêm để tham dự tiếp các giải nghiên cứu khoa học ở cấp trường, cấp bộ …

 Nói tóm lại, hoạt động nghiên cứu khoa học giúp các bạn sinh viên xây dựng và phát triển được tính năng động, sáng tạo, khả năng tư duy độc lập, tự nghiên cứu và khả năng làm việc nhóm của mình. Qua đó cũng giúp sinh viên trau dồi kiến thức, phát huy những điểm mạnh, áp dụng khoa học công nghệ vào giải quyết vấn đề thực tiễn, tích lũy kỹ năng nghề nghiệp… để đảm bảo sinh viên sau khi ra trường đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của xã hội.

ThS. Nguyễn Ngọc Thanh

Giảng viên khoa Xuất bản, Phát hành

NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂNTRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NCKHCỦA SINH VIÊN TẠI VIỆT NAMSinh viên Việt Nam năng động, sáng tạo, chủ động trong học tập và nghiên cứu khoa học, với mong muốn áp dụng những công trình khoa học của mình vào ứng dụng trong thực tế. Nghiên cứu khoa học là một hoạt động vô cùng cần thiết đối với sinh viên nói riêng và toàn xã hội nói chung. Đó là một trong những hoạt động hữu ích nhằm giúp sinh viên làm rõ lý thuyết được học trên giảng đường, nhanh chóng tiếp cận với những vấn đề từ nóng bỏng nhất đến cố hữu nhất. Thông qua nghiên cứu khoa học, sinh viên có cơ hội tiếp cận và vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để giải quyết một số vấn đề của khoa học và thực tiễn, tiếp cận với những kiến thức mới; bày tỏ suy nghĩ, quan điểm đối với những vấn đề mình thực sự quan tâm cũng như ước mơ hay hoài bão của mình; rèn luyện khả năng tư duy, phát huy tính sáng tạo, năng động thông qua sự định hướng và hướng dẫn của các giảng viên. Hiện nay, số lượng và chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên ngày càng tăng, đòi hỏi công tác chú trọng đến việc nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học một cách toàn diện, tránh tình trạng các đề tài kém chất lượng và không có khả năng ứng dụng vào thực tế. Giúp sinh viên tránh khỏi những sai sót, tìm ra biện pháp giải quyết khó khăn và hoàn thành quá trình nghiên cứu khoa học với hiệu quả cao nhất.Hiện nay, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên có một số thuận lợi và khó khăn như sau:Thuận lợi:Do tuổi đời còn rất trẻ nên sinh viên rất ham học hỏi, tìm tòi, khám phá cái mới. Với sự năng động, linh hoạt cũng như nhạy bén của tuổi trẻ, sinh viên nắm bắt rất nhanh các nhu cầu của xã hội để từ đó đưa ra các giải pháp đáp ứng các nhu cầu đó. PHẠM THỊ THANH HOA 1Sinh viên có sự sáng tạo cao cộng với chất táo bạo sẵn có. Sự táo bạo trong khoa học của họ bắt đầu với niềm say mê về một chủ đề nào đó, tiếp đó lựa chọn chính xác một cơ sở nghiên cứu hoặc một người cố vấn và tìm ra bài toán quan trọng cần giải quyết. Họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro, lăn sả vào những đề tài mới, khó nhưng có khả năng ứng dụng thực tế cao. Chính vì thế, họ trở thành những người đi đầu phong trào trong áp dụng cái “mới” bài trừ xu hướng “bảo thủ”, khơi nguồn cảm hứng sáng tạo và những nhiệt huyết cháy bỏng trong nhóm những người nghiên cứu đề tài khoa học. Hiện nay, cùng với các nguồn tài liệu từ sách, báo, Internet, thì với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc tìm kiếm các nguồn tài liệu trở nên dễ dàng hơn với số lượng tài liệu ngày càng phong phú hơn. Ngoài ra, sinh viên không ngừng trao đổi khả năng ngoại ngữ nên có trình độ ngoại ngữ khá tốt. Bên cạnh việc nghiên cứu các nguồn tài liệu bằng tiếng Việt, sinh viên còn tận dụng, khai thác các nguồn tài liệu bằng tiếng nước ngoài.Nhà trường dành sự quan tâm, chỉ đạo cũng như động viên, khuyến khích, hỗ trợ cho những sinh viên nghiên cứu khoa học, xem đây là một trong các hoạt động trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của Nhà trường. Giải quyết những khó khăn về kinh phí, quản lí nghiên cứu, hoàn thiện chính sách khuyến khích sinh viên và cán bộ hướng dẫn tham gia hỗ trợ sinh viên thực hiện đề tài.Giảng viên hướng dẫn đóng một vai trò không kém phần quan trọng trong sự thành bại đối với đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên. Họ là những thạch sĩ, tiến sĩ nhiệt tình, có kinh nghiệm, trách nhiệm với vai trò là những người định hướng và hướng dẫn sinh viên, theo sát sinh viên trong quá trình thu thập tài liệu, xử lý thông tin… và là người tham định chất lượng bài viết trước khi sinh viên chính thức nộp bài. Họ không ngừng học hỏi, tìm hiểu và nâng cao trình độ chuyên môn để trở thành những cá nhân xuất sắc có khả năng và nhiều kinh nhiệm hơn.Ngoài nhà trường, các tổ chức, các doanh nghiệp, cũng dành sự quan tâm không nhỏ đến những đề tài nghiên cứu của sinh viên. Họ tài trợ cho các đề tài, giúp sinh viên giải quyết vấn đề chi phí, giảm nhẹ gánh nặng trong nghiên cứu khoa học và giúp hiện thực hóa những đề tài thành công của sinh viên. Góp phần cải tạo tình hình kinh tế - xã hội, tăng thêm động lực cho những sinh viên nghiên cứu khoa học. PHẠM THỊ THANH HOA 2Việc đẩy mạnh giao lưu nghiên cứu trong nội bộ các trường, giữa các trường, khoa là các hội thảo chuyên môn được tổ chức định kỳ cho mọi thành phần [giảng viên, sinh viên, những người quan tâm] – nội dung là việc báo cáo các hướng nghiên cứu, kết quả nghiên cứu, dự án nghiên cứu, chia sẻ thông tin hay trao đổi bình luận các bài báo khoa học mà báo cáo viên có thể là bất cứ ai. Nó cũng là cơ hội cho sinh viên tích lũy kinh nghiệm và phương pháp nghiên cứu từ những người đi trước, cũng như tham gia vào các dự án nghiên cứu do giảng viên thực hiện. Ngoài nâng cao chất lượng đào tạo cho không sinh, bên cạnh các tiêu chí về chất lượng nghiên cứu, bao gồm rèn luyện kỹ năng thực nghiệm, kỹ năng mềm, mở rộng kiến thức môn học, thái độ làm việc, khả năng phát hiện vấn đề thực tiễn, tiếp cận công nghệ mới, thực tập nghiên cứu… Sinh viên được tiếp cận thiết bị công nghệ cao trong nghiên cứu khoa học, quan sát, nghiên cứu và thực hành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cán bộ nghiên cứu, có điều kiện được làm việc trong những môi trường thực tế, tiếp xúc với nhiều tình huống thực và làm việc độc lập với kỹ năng thành thạo.Khó khăn:Hiện nay, sinh viên vẫn còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học. Phần lớn sinh viên đều chưa từng thực hiện đề tài, trong đó, một bộ phận sinh viên thích làm những đề tài lớn mà chưa hiểu rằng những đề tài nhỏ rất phù hợp với điều kiện của sinh viên và có tính thực tế cao. Các thầy/cô từ gợi ý nội dung đề tài, đề cương, nội dung từng chương, mục nhưng sinh viên vẫn chưa có sự chủ động trong việc thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học từ đầu đến cuối. Sinh viên không có nhiều thời gian dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Ngoài việc nghiên cứu khoa học, sinh viên còn phải đảm bảo việc ôn luyện, thi cử và học tập trên giảng đường đại học nên phải chịu không ít những áp lực. Chính vì thế, sinh viên thường thiếu thời gian cho việc tìm tòi, nghiên cứu khoa học. Hiện nay, sinh viên chưa được trang bị tốt phương pháp nghiên cứu nên hầu hết đều loay hoay không biết bắt đầu từ đâu, làm gì và muốn đạt kết quả nào, cho ai do thiếu phương pháp nghiên cứu khoa học.Các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên sở hữu rất ít những điểm sáng tạo, đột phá. Sinh viên sợ gặp phải những khó khăn, rủi ro trong quá trình thực hiện, hoặc là thiếu sự tự tưởng vào bản thân hay không có đủ động cơ để PHẠM THỊ THANH HOA 3phát triển, gắn kết những điểm sáng tạo và kiểm chứng nó. Một bộ phận sinh viên chưa thực sự tâm huyết với đề tài của mình, thụ động trong thực hiện nghiên cứu khoa học, ít chịu tìm tòi, ngại nghiên cứu tài liệu, nhất là tài liệu nước ngoài và không say mê thực hành trong phòng thí nghiệm, trải nghiệm trong thực tế. Trong khi đó hoạt động nghiên cứu khoa học đòi hỏi sinh viên phải chuẩn bị kiến thức sâu, kỹ năng tốt và thái độ làm việc nghiêm túc, có kỷ luật cao. Đặc biệt, những đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên thường bị sự cạnh tranh rất lớn từ những giảng viên, những cá nhân có kinh nghiệm nên đề tài của họ thường ít được lựa chọn.Đối với giảng viên hướng dẫn, do thời gian diễn ra những đợt nghiên cứu khoa học của sinh viên quá ngắn dẫn đến áp lực chỉnh sửa bài viết đối cho sinh viên cộng với áp lực về việc giảng dạy nên bị hạn chế về thời gian theo sát sinh viên trong quá trình nghiên cứu. Giảng viên hướng dẫn chưa được sự ghi nhận xứng đáng. Hơn thế nữa, sự không hợp tác, thiếu chủ động của một số sinh viên tạo tâm chán nản, thiếu nhiệt tình trong giảng viên hướng dẫn. Một bộ phận sinh viên thu thập những số liệu từ các nguồn đã có trên mạng hay các tài liệu khác, tự nghĩ ra các số liệu sao cho hợp lý, hoặc tạo ra các số liệu ảo thông qua một vài số liệu thực tế, nghiên cứu những gì “có sẵn” để nhằm “hoàn thành đúng hạn” dẫn tới rất nhiều công trình sau khi nghiệm thu đều được đóng bìa cứng xếp vào tủ kính. Chính vì thế, trình độ của sinh viên nghiên cứu không được nâng cao, những đề tài không mang lại hiệu quả gây lãng phí thời gian và tiền bạc.Hiện nay, nguồn kinh phí dành cho sinh viên để thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học là khá eo hẹp, thậm chí một số sinh viên phải tự bỏ tiền túi ra để thực hiện các đề tài nghiên cứu mà chi phí cho hoạt động nghiên cứu là rất lớn. Mặt khác, hầu hết sinh viên vẫn là những đối tượng nhận chu cấp từ gia đình. Chính vì thế, công tác nghiên cứu khoa học gặp khá nhiều vấn đề khó khăn, thậm chí còn bị bỏ dở giữa chừng. Cơ sở vật còn thiếu, chưa đồng bộ và hiện đại. Nhiều trang thiết bị đã được nhà trường quan tâm đầu tư và cải thiện đáng kể trong nhưng vẫn chưa được khai thác có hiệu quả. Sinh viên không có nhiều cơ hội tiếp cận với những thiết bị công nghệ cao, đắt tiền hoặc vận hành phức tạp. Việc tìm tài liệu cũng là một khó khăn không nhỏ bởi đa số sinh viên không có điều kiện tiếp cận với nhiều tài liệu khác nhau. Những khó khăn về nguồn lực tài chính, PHẠM THỊ THANH HOA 4sự thiếu kinh nghiệm trong việc tổng hợp, phân tích những kiến thức có được cũng là những vấn đề đối với sinh viên khi tham gia nghiên cứu khoa học.Việc đánh giá các kết quả tìm được trong các nghiên cứu của sinh viên vẫn còn bị coi nhẹ. Một số sinh viên thực hiện những nghiên cứu hoàn chỉnh với kết quả thực sự có ý nghĩa khoa học và thực tiễn nhưng kết quả không cao hoặc không được coi trọng, ứng dụng, gây tâm lý chán nản trong quá trình phát triển những đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên hay trong những lần thực hiện đề tài tiếp theo.Một số biện pháp khắc phục:Tăng cường các hoạt động tuyên truyền lợi ích của việc nghiên cứu khoa học đối với sinh viên và có những khích lệ thích đáng để khuyến khích sinh viên theo đuổi đến cùng việc nghiên cứu khoa học của mình. Đưa ra những chính sách khuyến khích đối với những sinh viên có kết quả xuất sắc. Hướng dẫn sinh viên thực hiện nghiên cứu khoa học với phương pháp tiên tiến, hiệu quả. Giảng viên cần nghiên cứu, đọc bài và góp ý cho sinh viên một cách kỹ càng và sâu sắc. Sinh viên phải làm thật, làm thật ở đây có nghĩa là tiến hành thực nghiệm thật, tiến hành phỏng vấn thật, tiến hành điều tra thật. Chứ không phải thu thập những số liệu từ các nguồn đã có trên mạng hay các tài liệu khác, cũng không phải là ngồi mà nghĩ ra các số liệu cho hợp lý, hoặc tạo ra các số liệu ảo thông qua một vài số liệu thực tế. Từ đó, dựa trên những kỹ năng viết, trình bày, phân tích số liệu, thể hiện rõ ràng cụ thể và thuyết phục trong bài báo cáo, thuyết trình.Xem xét kéo dài thời gian viết bài cho sinh viên nhằm giảm áp lực về thời gian viết bài cũng như áp lực về thời gian chỉnh sửa bài viết đối với các giảng viên. Tạo điều kiện cho giảng viên nâng cao năng lực của bản thân, đánh giá đúng những đóng góp của giảng viên trong công tác trợ giúp sinh viên nghiên cứu khoa học.Cho sinh viên tiếp cận thiết bị công nghệ cao trong nghiên cứu khoa học, làm việc độc lập với kỹ năng thành thạo được đào tạo. Tăng cường cơ sở vật chất một cách đồng bộ và hiện đại cho công tác nghiên cứu khoa học. Thư viện và các nhóm nghiên cứu cần được bổ sung các tài liệu chuyên sâu phục vụ nghiên cứu, nhất là đăng ký, đặt mua và sử dụng trực tuyến các tạp chí khoa học quốc tế. Tằng nguồn kinh phí chi cho công tác nghiên cứu khoa học, công PHẠM THỊ THANH HOA 5bằng, công khai dựa trên thực tế và khả năng đóng góp, ứng dụng của đề tài. Đồng thời cũng xin thêm các nguồn viện trợ từ các quỹ hội cũng như các tổ chức, giúp giải quyết những vấn đề liên quan đến chi phí.Thành lập những câu lạc bộ, mở các hội thảo về vấn đề nghiên cứu khoa học, tạo môi trường để cùng nhau học hỏi, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm. Khuyến khích sinh viên tham gia vào các tổ chức Đoàn, Hội, CLB, nhóm để sinh viên có khả năng hoạt động chung, rèn luyện kỹ năng mềm và những kỹ năng khác được nâng cao. Mở những cuộc thi nhằm tạo tính cạnh tranh, thi đua trong sinh viên về nghiên cứu khoa học.Khi đánh giá tình hình nghiên cứu khoa học trong sinh viên, cần đánh giá chính xác chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học, hay khả năng của sinh viên trong việc hình thành các ý tưởng và triển khai [một phần hay toàn bộ] quá trình nghiên cứu một các khoa học, tính ứng dụng của những đề tài nghiên cứu khoa học vào trong thực tế. PHẠM THỊ THANH HOA 6

Video liên quan

Chủ Đề