Top 5 quốc gia có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao nhất năm 2022

Thông tin được đưa ra tại Hội thảo về công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em do Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y tế  tổ chức ngày 28/7.

TS Trần Đăng Khoa - Phó Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em cho biết, thời gian qua, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Trong đó, tỷ lệ phụ nữ đẻ được khám thai từ 4 lần trở lên đạt trên 80%; tỷ lệ phụ nữ đẻ được nhân viên y tế đỡ duy trì 95 - 97%; tỷ lệ chăm sóc sau sinh trong 7 ngày đầu sau đẻ đạt khoảng 80%.

Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, thách thức ảnh hưởng đến về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em, nhất là sự chênh lệch giữa các vùng miền và nhóm dân tộc.

Top 5 quốc gia có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao nhất năm 2022
TS Trần Đăng Khoa - Phó Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em phát biểu tại hội thảo.

Theo đó, tỷ lệ tử vong mẹ ở vùng 3 cao gấp 3,5 lần so với vùng 1, trong khi đó, tỷ lệ tử vong mẹ ở dân tộc H'Mong cao gấp 7 - 8 lần so với dân tộc Kinh, Tày. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi ở nông thôn cao gấp đôi thành thị và khoảng cách về tử vong trẻ em dưới 1 tuổi ở dân tộc thiểu số với dân tộc kinh ngày càng gia tăng (năm 2006 là 1,35 lần; năm 2014 là 4,3 lần).

Bên cạnh đó, tỷ lệ tử lệ tử vong sơ sinh còn cao, chiếm đến 70 - 80% tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, 50 - 60% tử vong trẻ dưới 5 tuổi. Vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng khó khăn vẫn có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao so với trung bình cả nước (Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên). Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dân tộc thiểu số cao gấp 2 lần và tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân cũng cao gấp 2,5 lần so với trẻ em là người Kinh (tương ứng 31,4% so với 15,0% và 21% so với 8,5%).

Lý giải về thực trạng này, TS Trần Đăng Khoa đưa ra một số nguyên nhân như: thiếu nhân lực (thiếu cán bộ chuyên môn sản, nhi, gây mê hồi sức; 30% bác sĩ đa khoa làm công tác chăm sóc sản khoa, nhi khoa tại tuyến huyện); thiếu cơ sở vật chất, trang thiết. Năng lực về cấp cứu sản khoa, sơ sinh (sàng lọc, phát hiện dấu hiệu nguy hiểm, chuyển tuyến, chẩn đoán, tiên lượng và xử trí) còn hạn chế ở những vùng khó khăn. Đặc biệt, công tác duy trì đội ngũ cô đỡ thôn bản gặp khó khăn do y tế thôn bản/cô đỡ thôn bản không còn được hưởng phụ cấp, gây khó khăn trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh ở vùng dân tộc thiểu số.

Ngoài ra, theo thống kê chưa đầy đủ, tại nước ta hiện nay, mỗi ngày có 39 em bé dưới 28 ngày tuổi tử vong. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đang chiếm tới 80% số ca tử vong đối với trẻ dưới 1 tuổi.

Đề cập đến vấn đề này, TS Trần Đăng Khoa cho biết, hiện ngành y tế đang cố gắng giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. Vì giảm tử vong trẻ sơ sinh sẽ giảm được tỷ lệ tử vong đối với trẻ dưới 1 tuổi. Có nhiều nguyên nhân liên quan đến trẻ sơ sinh tử vong. Đơn cử như quá trình khám thai đầy đủ, phải đảm bảo 4 lần khám trong suốt thời gian thai kỳ. Các trường hợp đẻ khó, khó can thiệp và cứu chữa.

Bên cạnh đó, sau khi trẻ ra đời, sự chăm sóc nuôi dưỡng cũng ảnh hưởng đến của trẻ sơ sinh…. Đáng chú ý, khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa có tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong cao nhất. Nguyên nhân được cho là do ở xa cơ sở y tế, nhiều người mẹ vùng khó khăn phải sinh con tại nhà, không được chăm sóc y tế kịp thời, đúng cách, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.

Theo TS Trần Đăng Khoa, chính sách đối với đội ngũ cô đỡ thôn bản hiện nay chưa được quan tâm đúng mức cũng góp phần làm cho tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh vẫn ở mức cao. Đội ngũ cô đỡ thôn bản có thể giúp ngành y tế giảm tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh. Thời gian qua, phụ cấp của cô đỡ thôn bản bị cắt giảm và gần như không còn. Ngành y tế đã khuyến cáo các tỉnh, đặc biệt là vùng sâu vùng xa cần quan tâm hỗ trợ cô đỡ thôn bản.

Theo thông tin từ WHO, hàng năm trên toàn cầu có gần 42 triệu ca phá thai (trong đó các nước phát triển gần 8 triệu ca; các nước đang phát triển là gần 38 triệu ). Tỷ lệ phá thai ở Việt Nam đã giảm mạnh từ 37 ca trên 100 ca sinh đẻ (2005) xuống còn 10 ca (2021). So sánh với giai đoạn 1990 - 1995, trung bình cứ 1 ca đẻ thì có 1 ca phá thai, hiện nay 10 ca đẻ mới có 1 ca phá thai. Tổng số ca phá thai đã giảm từ gần 400.000 ca (năm 2010) xuống dưới 200.000 ca (2019). Việt Nam cơ bản loại trừ các cơ sở phá thai bất hợp pháp. Tỷ lệ tai biến do và tử vong do phá thai rất thấp.

Tỷ lệ mang thai vị thành niên cũng giảm. Theo đó, năm 2010, Việt Nam có trên 62.000 ca mang thai ở tuổi vị thành niên (2,9%) năm 2019, con số này giảm xuống còn 55 nghìn ca (chiếm 2,4%). Tỷ lệ phá thai vị thành niên có xu hướng giảm. Cụ thể năm 2010, có gần 9.100 ca nạo phá thai, năm 2019 con số này còn 2.300 ca.

14:05, 09/05/2013

Theo báo cáo thường niên về tình trạng sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh của tổ chức Save the Children, Việt Nam là một trong 10 nước đứng đầu trên thế giới trong việc giảm nhanh tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. Cụ thể, từ năm 1999 đến 2011, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở nước ta đã giảm tới 48%.

Báo cáo của Save the Children so sánh 176 quốc gia trên toàn thế giới. Theo đó, Việt Nam xếp thứ 86 trong bảng xếp hạng về những nơi tốt nhất cho các bà mẹ. Báo cào này dựa trên các yếu tố như sức khỏe bà mẹ, tình hình kinh tế giáo dục, các chỉ số thiết yếu về sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em. Trong khối ASEAN, Việt Nam đứng trên các nước trong khu vực như Campuchia, Lào, Philippines, Indonesia, Myanma nhưng xếp sau các nước Thái Lan, Malaysia và Singgapore.

Top 5 quốc gia có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao nhất năm 2022

Cũng theo Save the Children tại Việt Nam, Việt Nam đang trong tiến trình đạt được mục tiêu thiên niên kỷ về giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em. Tuy vậy, vẫn còn hơn 17.000 trẻ tử vong ngay trong tháng đầu tiên trong đời, trong đó rất nhiều trường hợp có thể tránh được. Nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ sơ sinh tại Việt Nam gồm sinh non, ngạt và nhiễm khuẩn.

(Theo Chinhphu.vn)

  • Journal List
  • Health Care Financ Rev
  • v.13(4); Summer 1992
  • PMC4193257

Health Care Financ Rev. 1992 Summer; 13(4): 105–118.

Abstract

The very unfavorable infant mortality ranking of the United States in international comparisons is often used to question the quality of health care there. Infant mortality rates, however, implicitly capture a complicated story, measuring much more than differences in health care across countries. This article examines reasons behind international infant mortality rate rankings, including variations in the measurement of vital events, and differences in risk factors across countries. Its goal is to offer a broader context for more informed debate on the meaning of international infant mortality statistics. These statistics offer opportunities to identify strategies for improving the U.S. health care system and learn from other countries that have been more successful.

Introduction

Rankings of infant mortality rates (IMRs) are among the most commonly cited international comparisons of health status. The very low ranking of the United States—19th among industrialized countries in 1989 (Table 1)—is often used to question the quality of health care in the United States. The U.S. rate of infant mortality (defined as the number of deaths among children under 1 year of age, divided by the number of births in a given year, and multiplied by 1,000) was more than 50 percent higher than those of Japan, Finland, and Sweden. These statistics have helped to spur interest in bringing down the number of infant deaths in the United States. Despite improvements— including a drop in the rate from 9.7 in 1989 to 8.9 in 1991—there is still a long way to go to bring U.S. rates in line with those of other countries.

Table 1

Infant mortality rates in selected industrialized countries: 1989

RankCountryInfant mortality rate
1 Japan 4.4
2 Finland 5.8
3 Sweden 6.0
4 Switzerland 6.8
5 Netherlands 6.8
6 Canada 7.1
7 France 7.4
8 West Germany 7.5
9 Ireland 7.5
10 East Germany 7.6
11 Australia 7.7
12 Norway 7.8
13 Spain 7.8
14 Austria 8.3
15 Denmark 8.4
16 United Kingdom 8.5
17 Italy 8.6
18 Belgium 8.8
19 United States 9.7
20 Greece 9.8
21 Israel 10.0
22 New Zealand 10.2
23 Czechoslovakia 11.3
24 Portugal 12.2
25 Bulgaria 14.4

Infant mortality rates implicitly capture a complicated story, measuring much more than differences in health care across countries. For example, these rates are affected by the socioeconomic status of mothers and their children; we know that the age of the mother, birth weight of the child, quality of nutrition for the mother, and other factors are associated with mortality (Institute of Medicine, 1985;U.S. Congressional Budget Office, 1992; Hogue et al., 1987). Measurement differences in statistical reporting of vital events also figure into these comparisons. However, it would be a mistake to simply dismiss these measures. In assessing how the United States stacks up against other countries, these statistics offer opportunities to identify strategies for improving our health care system and to learn from other countries that have been more successful.

To expand our knowledge about the reasons behind international rankings, it is important to probe further. This article attempts some steps in that direction by taking a closer look at the statistics—sorting out real differences from artifacts of measurement, disaggregating the data where possible, and examining differences in risk factors across countries. Even industrialized countries differ substantially in approaches to treatment of health problems, use of resources, and presentation of data. Because of data limitations, we can only speculate on the impact of some of these differences and cite some of the important literature in the area. Much of the work in this area has focused on factors contributing to infant mortality in individual countries. This article summarizes some of the important research findings and attempts to put them in a broader framework. Our goal here is to offer a context for more informed debate on the meaning and interpretation of infant mortality statistics.

This survey of what we know about international comparisons is divided into several major areas. First, we examine measurement issues that can affect the rankings. We disaggregate infant mortality statistics into components such as neonatal and post-neonatal rates to provide more information about causes of international differences, and examine the occurrence of non-uniform reporting of vital events across countries. These differences can affect the relative ranking of the United States, but do not change the basic finding that we do less well with infant deaths than do many other industrialized countries. Second, we examine risk factors that affect infant mortality and try to trace how these factors differ internationally. Third, we turn to some simple simulations that help illustrate why infant mortality is so different in the United States as compared with other countries. The article concludes with a discussion of what these comparisons mean and what policy challenges await us in the attempt to reduce the rate of infant deaths in the United States.

Vấn đề đo lường

So sánh quốc tế thường bị chỉ trích trên cơ sở đo lường. IMR là một biện pháp rất thô, nắm bắt cả quá nhiều và quá ít. Khi tất cả các trường hợp tử vong lên đến 1 tuổi được kết hợp, một số nhà phê bình cho rằng biện pháp này nắm bắt quá nhiều vấn đề khác nhau và sự phân tổ tiếp theo là phù hợp. Tuy nhiên, số liệu thống kê tử vong ở trẻ sơ sinh cũng bỏ qua một số thông tin quan trọng, chẳng hạn như bỏ qua các trường hợp tử vong của thai nhi trước khi sinh, điều đó có thể làm biến dạng bức tranh theo một cách khác. Cuộc tranh luận này về một số biện pháp sử dụng minh họa sự phức tạp của các yếu tố xung quanh tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh.

Ngoài ra, các vấn đề đo lường phát sinh trong các so sánh quốc tế vì dữ liệu không được thu thập hoặc báo cáo nhất quán. Mặc dù Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có một định nghĩa chính thức về những gì nên được đưa vào thống kê tử vong ở trẻ sơ sinh, bằng chứng giai thoại cho thấy các quốc gia không sử dụng các thực hành nhất quán trong việc đo lường các dữ liệu này (Haub và Yanagishita, 1991; Hartford, 1992).

Dù lý do cho những khác biệt đo lường này là gì, chúng có thể thiên về bảng xếp hạng và so sánh quốc tế. Do đó, dữ liệu quốc tế cần được xem xét thận trọng, nhận ra rằng ít nhất một số khác biệt có thể là các tạo tác thống kê.

Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và sau khi sinh

IMR nói chung là cơ sở cho bảng xếp hạng quốc tế, tuy nhiên, các so sánh nhiều thông tin hơn có thể được thực hiện bằng cách kiểm tra các thành phần của nó. Hai biện pháp thường được chấp nhận và bổ sung là tỷ lệ tử vong sơ sinh và tỷ lệ tử vong sau khi sinh. Tỷ lệ tử vong sơ sinh được định nghĩa là số ca tử vong mỗi năm của trẻ sơ sinh dưới 28 ngày tuổi, chia cho số ca sinh sống trong năm đó và nhân với 1.000. Tỷ lệ tử vong sau khi sinh được định nghĩa là số ca tử vong mỗi năm, của trẻ sơ sinh trong khoảng từ 28 ngày đến dưới 1 tuổi, chia cho số lần sinh trong năm đó và nhân với 1.000. Do đó, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đo các trường hợp tử vong xảy ra ngay sau khi sinh và tỷ lệ tử vong sau khi sinh đo được tử vong của trẻ sơ sinh sống sót sau 28 ngày đầu tiên.

Tầm quan trọng của sự khác biệt giữa tử vong ở trẻ sơ sinh và sau khi sinh là nguyên nhân tử vong có xu hướng khác nhau trong hai thời kỳ. Nguyên nhân tử vong trong thời kỳ sơ sinh bao gồm dị thường bẩm sinh không tương thích với cuộc sống và các điều kiện phát sinh trong thời kỳ chu sinh như các vấn đề liên quan đến mang thai, biến chứng chuyển dạ và sinh nở, tăng trưởng của thai nhi chậm và chấn thương khi sinh. Ngược lại, các nguyên nhân tử vong trong thời kỳ hậu giao tiếp thường có nguồn gốc môi trường và bao gồm hội chứng tử vong ở trẻ sơ sinh đột ngột (SIDS), một số dị thường bẩm sinh khác và tai nạn. Do đó, các can thiệp để giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và sau khi sinh có thể khá khác nhau.

Bảng 2 trình bày các thành phần năm 1986 về tỷ lệ tử vong sơ sinh, tỷ lệ tử vong sau khi sinh và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cho Hoa Kỳ và các quốc gia khác được chọn có IMRS thấp hơn Hoa Kỳ. Tỷ lệ sơ sinh được cung cấp cho các khoảng thời gian khác nhau sau khi sinh (tức là, dưới 1 ngày, 1-6 ngày và 7-27 ngày tuổi). Một so sánh nổi bật trong bảng này là những cái chết sơ sinh trong ngày đầu tiên của cuộc đời. Tỷ lệ Hoa Kỳ trong ngày đầu tiên của cuộc đời là 3,88 trên 1.000 ca sinh sống, cao hơn 2 đến 3 lần so với nhiều quốc gia khác và cao hơn 11/2 lần so với Vương quốc Anh Tỷ lệ cao nhất trong danh mục này. Những lý do đằng sau tỷ lệ tương đối cao hơn của Hoa Kỳ có thể là đa dạng. Tuy nhiên, kết quả phù hợp với quan niệm rằng Hoa Kỳ có thể báo cáo là sinh ra nhiều trẻ sơ sinh có nhiều sinh ngày có nguy cơ tử vong cao trong ngày đầu tiên, và sau đó đăng ký những người chết là tử vong ở trẻ sơ sinh. presents 1986 components of neonatal mortality, post-neonatal mortality, and infant mortality rates for the United States and selected other countries that have lower IMRs than the United States. Neonatal rates are provided for various periods after birth (i.e., less than 1 day, 1-6 days, and 7-27 days of age). A striking comparison in this table is of the neonatal deaths in the first day of life. The U.S. rate for the first day of life was 3.88 per 1,000 live births, which was 2 to 3 times higher than those of many of the other countries, and more than 11/2 times higher than that of the United Kingdom which had the next highest rate in this category. The reasons behind the relatively higher U.S. rate can be manifold. However, the results are consistent with the notion that the United States may report as live births more low-birth-weight babies who are at high risk of dying in the first day, and then register those who die as infant deaths.

ban 2

Tỷ lệ tử vong sơ sinh và sau khi sinh: 1986

Quốc giaTỷ lệ

Tổng cộngÍt hơn 1 ngày1-6 ngày7-27 ngày28-364 ngày
Hoa Kỳ10.35 3.88 1.72 1.11 3.64
Vương quốc Anh (1987)9.55 2.44 1.83 1.01 4.27
Pháp8.04 1.25 1.99 1.07 3.73
Na Uy7.92 2.11 1.14 0.97 3.69
nước Hà Lan7.77 1.78 2.24 0.78 2.96
Thụy Điển5.90 1.40 1.93 0.59 1.97
Nhật Bản (1987)5.24 1.19 1.15 0.76 2.14

So sánh các thành phần khác của tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh (tức là, 1-6 ngày và 7-27 ngày) chỉ ra rằng, với một vài ngoại lệ, có tỷ lệ đồng nhất lớn hơn đáng kể giữa các quốc gia. Tỷ lệ tử vong sau khi sinh trong Bảng 2 thay đổi từ 1,97 đối với Thụy Điển đến 4.27 cho Vương quốc Anh. Mặc dù tỷ lệ tử vong sau khi sinh của Hoa Kỳ là 3,64 gần với Vương quốc Anh hơn so với Thụy Điển, nhưng nó ở giữa nhóm.Table 2 varied from 1.97 for Sweden to 4.27 for the United Kingdom. Although the U.S. post-neonatal mortality rate of 3.64 was closer to United Kingdom's than to Sweden's, it is in the middle of the group.

Sự thay đổi trong các sự kiện đã đăng ký

Trong việc so sánh quốc tế, một lý do quan trọng để kiểm tra các biện pháp khác ngoài IMR là các biến thể giữa các quốc gia trong việc đăng ký các sự kiện quan trọng có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ chung. Bởi vì số người tử vong luôn rất nhỏ như một tỷ lệ sinh, nên sự khác biệt nhỏ trong cách đo được cái chết có thể có tác động đặc biệt mạnh mẽ đến tỷ lệ. Biến thể trong việc đăng ký sinh sống gián tiếp ảnh hưởng đến việc ghi lại các trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh cũng như sinh sống; Một cái chết của trẻ sơ sinh được ghi lại như vậy, trẻ sơ sinh phải được đăng ký dưới dạng sinh sống. Tử vong ngay sau khi sinh cấu thành một lý do cho trẻ sơ sinh có thể không được đăng ký. Mặc dù việc đăng ký sinh sống được cho là dựa trên định nghĩa của WHO về bất kỳ dấu hiệu nào của cuộc sống, nhưng không phải tất cả các quốc gia đều đăng ký định nghĩa này (Haub và Yanagishita, 1991; Hartford, 1992). Ở Pháp, một em bé phải sống vào thời điểm đăng ký, có thể là 24-48 giờ sau khi sinh. Nếu trẻ sơ sinh không tồn tại đến thời điểm đó, nó được ghi lại là một đứa trẻ chết tiệt. Đông Đức đòi hỏi bằng chứng về chức năng của cả tim và phổi. Liên Xô cũ loại trừ từ trẻ sơ sinh sống dưới 1.000 gram trọng lượng hoặc dưới 28 tuần thai, nếu chúng chết trong vòng 7 ngày sau khi sinh.

Nhật Bản đã được biết đến với việc phân loại một số trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh khi tử vong do thai nhi muộn (thai chết lưu), mặc dù một số nhà quan sát tin rằng các bước đã được thực hiện để khắc phục tình hình (Haub và Yanagishita, 1991). Tuy nhiên, đến mức thực hành này tồn tại, IMR của Nhật Bản có thể thấp một cách giả tạo. Để chứng minh tác động của các biến thể tiềm năng trong việc phân loại tử vong của thai nhi và trẻ sơ sinh, Haub và Yanagishita (1991) đã so sánh số lượng tử vong của thai nhi và trẻ sơ sinh ở một số quốc gia. Đối với hầu hết 19 quốc gia trong so sánh của họ, tỷ lệ thai chết lưu (tức là tử vong của thai nhi) so với tử vong ở trẻ sơ sinh năm 1985 là từ 0,45 đến 0,60. Nhật Bản, có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới, có số lượng thai chết lưu cao bất thường trên mỗi lần tử vong ở trẻ sơ sinh, 0,98. Haub và Yanagishita (1991) đã đặt ra câu hỏi liệu phong tục xã hội và văn hóa có ủng hộ việc ghi lại cái chết của trẻ sơ sinh như một đứa con chết lưu, vì thực tế là cái chết của trẻ sơ sinh, nhưng không phải là thai, được ghi nhận trong hệ thống đăng ký gia đình của Nhật Bản. Thực tiễn này có thể xảy ra do một nhận thức rằng cái chết của một đứa trẻ sẽ là một mục không mong muốn trong sổ đăng ký.

Tầm quan trọng của những biến thể này là những lần sinh có thể không được ghi lại trong những trường hợp này là những trường hợp có nguy cơ tử vong cao hơn mức trung bình ngay sau khi sinh. Do đó, việc không đăng ký các ca sinh có nguy cơ cao như vậy dẫn đến việc loại trừ của họ khỏi cả tử số và mẫu số của IMR. Bởi vì tử vong ở trẻ sơ sinh là rất ít so với sinh sống, loại trừ các trường hợp đó sẽ làm giảm IMR tổng thể so với những gì sẽ xảy ra nếu những sự kiện này được đăng ký là sinh sống.

Trong các tác động tiềm tàng của sự thay đổi giữa các quốc gia trong việc phân biệt tử vong của thai nhi và trẻ sơ sinh, rất hữu ích khi sử dụng các biện pháp nắm bắt tỷ lệ mắc cả tử vong của thai nhi và tử vong ở trẻ sơ sinh. Hai biện pháp như vậy là tỷ lệ tử vong chu sinh và tỷ lệ tử vong của Feto-Infant. Tỷ lệ tử vong chu sinh được định nghĩa là số ca tử vong của thai nhi muộn (từ 28 tuần trở lên trong tuổi thai), cộng với tử vong ở trẻ sơ sinh trong tuần đầu tiên của cuộc đời, chia cho số ca sinh sống và nhân với 1.000. Tỷ lệ tử vong của Feto-Infant được định nghĩa là số ca tử vong của thai nhi muộn (từ 28 tuần hoặc nhiều tuổi thai) cộng với tử vong ở trẻ sơ sinh trong năm đầu đời, chia cho số ca sinh sống cộng với tử vong của thai nhi và nhân với 1.000. Cả hai biện pháp phục vụ mục đích giảm các biến thể trong IMR có thể là do liệu kết quả mang thai kém được phân loại là tử vong của thai nhi hay tử vong ở trẻ sơ sinh.

Trong phân tích của họ, Haub và Yanagishita (1991) cũng đã so sánh các quốc gia về tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh (về cơ bản là tỷ lệ tử vong ở chân thai), có nguồn gốc từ việc kết hợp tử vong ở trẻ sơ sinh và thai chết lưu và chia số đó cho tổng số đó sinh sống và thai chết lưu. Trong so sánh đó, sự thay đổi xảy ra trong bảng xếp hạng quốc tế. Ví dụ, thứ hạng của Nhật Bản giảm xuống thứ ba, trong khi Phần Lan có tổng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp nhất. Bảng xếp hạng của Hoa Kỳ được nâng lên từ 18, về IMR, lên 15, sử dụng tổng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Trong một loại phân tích tương tự so sánh bảng xếp hạng của các quốc gia, Văn phòng Ngân sách Quốc hội Hoa Kỳ (1992) đã kiểm tra bảng xếp hạng quốc tế về tỷ lệ tử vong của Feto-Infant, so với IMRS. Nó phát hiện ra rằng, sử dụng tỷ lệ tử vong của Feto-Infant, xếp hạng của Hoa Kỳ được cải thiện từ 22 lên 19. Mặc dù các biện pháp kết hợp tử vong thai nhi và tử vong ở trẻ sơ sinh đã thay đổi bảng xếp hạng quốc tế, nhưng họ không thay đổi rõ rệt vị trí của Hoa Kỳ so với các nước công nghiệp khác.

Các biến thể tiềm năng trong các sự kiện chưa đăng ký

Bên cạnh sự khác biệt giữa các quốc gia có thể liên quan đến cách phân loại các sự kiện được ghi lại, sự khác biệt bổ sung có thể tồn tại trong việc liệu kết quả mang thai có được ghi lại hay không. Tử vong của thai nhi xảy ra trước khi tuổi thai được khuyến nghị chính thức là 28 tuần có thể không được ghi nhận là bất kỳ loại kết quả mang thai nào. Kết quả từ một phân tích gần đây cho thấy tuổi thai được khuyến nghị càng thấp là để đăng ký tử vong thai nhi, tỷ lệ này càng lớn là tử vong của thai nhi để sinh sống. Ví dụ, đăng ký tử vong của thai nhi được cho là bắt đầu từ 12 tuần tuổi thai ở Nhật Bản, có tỷ lệ tử vong thai nhi (tử vong sau khi sinh sống) là 0,9, nhưng ở tuổi 28 ở Thụy Điển, có thai nhi Tỷ lệ tử vong là 0,2 (Alberman et al., 1989).

Do các hoạt động đăng ký chính thức khác nhau giữa các quốc gia, không thể so sánh giữa nhiều quốc gia về tổng số trước và sau 28 tuần thai kỳ tử thần và tử vong ở trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, để minh họa tầm quan trọng của thực hành đăng ký, người ta nên xem xét rằng vào năm 1981, tỷ lệ tử vong của thai nhi đối với tuổi thai từ 28 tuần trở lên là 7,2 trên 1.000 ca sinh sống ở Nhật Bản và 6,8 trên 1.000 ca sinh sống ở Hoa Kỳ. Ngược lại, tỷ lệ tử vong của thai nhi trong 20-27 tuần tuổi thai là 15 trên 1.000 ca sinh sống ở Nhật Bản và chỉ 2,6 ở Hoa Kỳ. Điều hợp lý là một phần của sự khác biệt giữa hai quốc gia trong các trường hợp tử vong sớm của thai nhi này là do đăng ký dưới mức ở Hoa Kỳ. Mặt khác, những kết quả này đặt ra câu hỏi thú vị về việc xếp hạng quốc tế về tỷ lệ tử vong của Feto-Infant sẽ trông như thế nào nếu tử vong của thai nhi sớm được đưa vào biện pháp này.

Các cuộc thảo luận trước đó minh họa cách các biến thể trong các quy tắc và thực tiễn thông báo có thể ảnh hưởng đến việc đăng ký cả ca sinh và tử. Lượng biến thể trong sự khác biệt của IMR giữa các quốc gia là do thực hành đăng ký rất khó định lượng, mặc dù một số nhà quan sát (Howell, 1991) đã lưu ý rằng sự khác biệt về tính đầy đủ của việc báo cáo sinh tử có trọng lượng thấp và phân loại tử vong của thai nhi có thể sai lệch đáng kể . Như được chỉ ra bởi các minh họa đã được lưu ý trước đây, lý do liên quan đến đăng ký cho sự khác biệt IMR giữa bất kỳ hai quốc gia nào tự nó là một biến.

Các yếu tố quyết định tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh

Ngoài sự khác biệt của IMR giữa các quốc gia có thể được gây ra bởi các biến thể trong các nguyên tắc và thực tiễn đo lường, sự khác biệt thực sự chắc chắn tồn tại. Tuy nhiên, việc thiếu dữ liệu đa quốc gia rộng lớn và thống nhất đã hạn chế các so sánh quốc tế. Hầu hết các thông tin quốc tế có sẵn đã được phát triển từ các nghiên cứu chuyên ngành về các khía cạnh cụ thể của vấn đề. Ví dụ về các nghiên cứu như vậy bao gồm phân tích sức khỏe sinh sản của thanh thiếu niên ở sáu quốc gia (Jones và cộng sự, 1986) và phân tích các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và hệ thống tài chính của các nước châu Âu (Miller, 1988). Gần đây, một chương trình nghiên cứu đang diễn ra, nỗ lực hợp tác quốc tế về tỷ lệ mắc và tử vong ở chu kỳ và sơ sinh (ICE), liên quan đến 11 quốc gia, đã nghiên cứu các câu hỏi về sự chậm phát triển của thai nhi, và bệnh chu sinh và trẻ sơ sinh và tử vong (Alberman et al., 1989) .

Bất chấp sự ít ỏi tương đối của các nghiên cứu liên quan đến việc so sánh quốc tế về nguy cơ tử vong ở trẻ sơ sinh, mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ, can thiệp và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã được nghiên cứu rộng rãi trong các quốc gia. Các tài liệu bao gồm nhiều yếu tố sử dụng nhân khẩu học, kinh tế xã hội, hành vi và dịch vụ y tế liên quan đến kết quả mang thai. Kết quả của các nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ rất phức tạp giữa các yếu tố riêng lẻ; Các khung thay thế có thể được sử dụng để tổ chức các phát hiện.

Một khuôn khổ đặc biệt hữu ích đã được đề xuất bởi Wise (1990), người đã kiểm tra vai trò của nghèo đói, công nghệ và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ. Hình 1 trình bày sự thích ứng của khung ban đầu được phát triển bởi Wise (1990). Tóm lại, khôn ngoan đã xem nghèo đói ảnh hưởng đến khả năng tử vong ở trẻ sơ sinh thông qua hai cơ chế chung: tăng nguy cơ và giảm khả năng tiếp cận (phòng ngừa và điều trị) có hiệu quả trong việc giảm thiểu tác động của các rủi ro tăng cao. Tăng nguy cơ mẹ và thai nhi có thể bao gồm tăng tỷ lệ mắc các tình trạng y tế (ví dụ: tăng huyết áp), các yếu tố nhân khẩu học (ví dụ, tuổi mẹ trẻ) hoặc hành vi bất lợi của mẹ (ví dụ, hút thuốc và lạm dụng thuốc). Giảm quyền truy cập ngụ ý sự khác biệt được xác định bởi xã hội trong việc sử dụng các can thiệp có khả năng cải thiện kết quả sơ sinh.Figure 1 presents an adaptation of the framework originally developed by Wise (1990). In brief, Wise viewed poverty as influencing the likelihood of infant death through two general mechanisms: elevation of risk, and reduction of access to (preventive and therapeutic) interventions that may be effective in minimizing the impact of the elevated risks. Elevated maternal and fetal risk can include increased prevalence of medical conditions (e.g., hypertension), demographic factors (e.g., young maternal age), or adverse maternal behavior (e.g., smoking and drug abuse). Reduced access implies socially-determined differences in the use of interventions capable of improving neonatal outcomes.

Top 5 quốc gia có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao nhất năm 2022

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh

Như một minh họa về tác động của hai cơ chế, Wise (1990) đã lưu ý về nguyên nhân xã hội của người Viking về tỷ lệ tử vong sơ sinh khác nhau, trong đó sự khác biệt xã hội về nguy cơ ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong sơ sinh. Trẻ sơ sinh nặng ít hơn 2.500 gram, một định nghĩa tiêu chuẩn về cân nặng khi sinh thấp, ví dụ, chiếm hai phần ba của tất cả các trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh (Viện Y học, 1985). Sự khác biệt xã hội cũng ảnh hưởng đến việc tiếp cận các can thiệp chu sinh và trước khi sinh. Trong khi các can thiệp chu sinh (ví dụ, chăm sóc sản khoa của việc sinh nở có nguy cơ cao và chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh) ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong đặc hiệu cho sinh con, can thiệp trước khi sinh (ví dụ, chăm sóc kế hoạch hóa gia đình, dịch vụ dinh dưỡng và dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước khi sinh) ảnh hưởng đến phân phối cân nặng khi sinh.

Khung được mô tả bởi Wise (1990) cho thấy một con đường chung đối với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh tăng cao, trong đó: (1) điều kiện xã hội, như nghèo đói, ảnh hưởng đến mức độ rủi ro và tiếp cận với các can thiệp thích hợp; (2) sự tương tác động giữa các rủi ro và kết quả tiếp cận trong các biến thể về cân nặng khi sinh; và (3) cân nặng khi sinh và tỷ lệ sống đặc hiệu theo cân nặng khi sinh là các yếu tố trung gian chính của tử vong sơ sinh.1 Tỷ lệ tử vong sau khi sinh, chiếm khoảng một phần ba tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, có lẽ cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi cùng một quá trình, Mặc dù cân nặng khi sinh sẽ không nhất thiết là một yếu tố trung gian cho kết quả này vì nó là đối với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Mô hình khôn ngoan có thể không phù hợp với tất cả các giả thuyết đã được đặt ra về các mối quan hệ của các yếu tố quyết định tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, nó trình bày một khuôn khổ hợp lý để làm nổi bật những phát hiện từ nghiên cứu trước đó.

Lực lượng xã hội

Ở cấp độ rộng nhất, tình trạng kinh tế của các bà mẹ và trẻ em và việc họ tiếp cận các dịch vụ xã hội và hỗ trợ có khả năng ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Những khu vực này đã được xác định là các yếu tố nguyên nhân có khả năng trong việc giải thích tỷ lệ tử vong ở Hoa Kỳ (Wise, 1990), mặc dù tác động của chúng xảy ra bằng cách ảnh hưởng đến một số yếu tố nguyên nhân khác có thể liên quan trực tiếp hơn đến tử vong ở trẻ sơ sinh. Hơn nữa, bởi vì sự khác biệt lớn tồn tại giữa các quốc gia trong các yếu tố xã hội rộng lớn, rất khó sử dụng chúng để giải thích sự khác biệt quốc tế về tỷ lệ tử vong.

Thu nhập và nghèo đói

Thu nhập ở các nước công nghiệp của châu Âu khác nhau đáng kể. Hiện tại, Hoa Kỳ xếp hạng ở giữa các quốc gia trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) về thống kê này, một mức độ thuận lợi hơn so với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Mối tương quan đơn giản giữa thu nhập và IMR dường như cho thấy ít mối quan hệ trực tiếp giữa hai số liệu thống kê này. Ví dụ, dữ liệu năm 1988 về tổng sản phẩm quốc gia bình quân đầu người (GNP) đã có sẵn cho 15 trong số 20 quốc gia hàng đầu về tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh (Bộ Thương mại Hoa Kỳ, 1991). Mười trong số các quốc gia này có số liệu GNP bình quân đầu người thấp hơn Hoa Kỳ, nhưng chỉ có Hy Lạp có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao hơn (và tỷ lệ của nó rất gần với Hoa Kỳ). Chỉ có bốn quốc gia có mức độ cao hơn trên đầu người GNP.2

Tuy nhiên, có lẽ quan trọng hơn là sự khác biệt về tỷ lệ trẻ em lớn lên trong các gia đình có thu nhập dưới mức nghèo đói, đó là, dưới mức thu nhập cơ bản. Ở Hoa Kỳ, những người như vậy ít có khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe và có thể gặp vấn đề với dinh dưỡng và các nhu cầu cơ bản khác (dẫn đến các yếu tố rủi ro tăng cao). Ví dụ, các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng phụ nữ có thu nhập thấp thực sự ít có khả năng được chăm sóc trước khi sinh (Viện Y học, 1988). Chúng tôi cũng biết rằng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh tăng cao ở Hoa Kỳ có liên quan đến các khu vực có tỷ lệ nghèo đói cao (Davis và Schoen, 1978; Hạ viện Hoa Kỳ, 1991).

Mặc dù các biện pháp khác nhau mang lại những con số khác nhau, nhưng Hoa Kỳ có tỷ lệ nghèo ở trẻ em cao hơn so với các nước châu Âu. Ngược lại, Canada và Úc có mức giá gần với Hoa Kỳ, nhưng vẫn thấp hơn (Smeeding, Torrey và Rein, 1988; Smeeding, 1991). Đối với châu Âu, một biện pháp được sử dụng bởi Smeeding et al. (1988) đã tìm thấy tỷ lệ 22,4 % trẻ em trong tình trạng nghèo ở Hoa Kỳ trái ngược với tỷ lệ lần lượt là 4,8 và 4,9 % đối với Tây Đức và Na Uy. Trong nghiên cứu đó, bốn quốc gia châu Âu có tỷ lệ nghèo trẻ em thấp nhất, theo hai biện pháp khác nhau, là Thụy Điển, Thụy Sĩ, Tây Đức và Na Uy. Về mặt xếp hạng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, các quốc gia này đứng thứ ba, thứ tư, thứ tám và thứ mười hai (Bảng 1). Na Uy, với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao nhất của bốn quốc gia, là 7,8 so với 9,7 đối với Hoa Kỳ.Table 1). Norway, with the highest infant mortality of the four countries, was 7.8 as compared with 9.7 for the United States.

If infant mortality were related to income, in part because of the lack of access to health and social services, one would expect the problem to be more pronounced in the United States, where health care access is more dependent on ability to pay. Further, the greater availability of support services in other countries may compensate for some of the problems that poverty creates. Indeed, one recent paper comparing the United States with France concluded that the consequences of socioeconomic status are more severe in the United States (Howell, 1991).

Access to social services

Another way that the United States differs from other countries is in the availability of parental income and social supports for children beyond the provision of basic health care. Social programs that address this issue are largely confined to the very poor in the United States. Income support through Aid to Families with Dependent Children (AFDC) reaches less than one-half of all the poor children in the United States. In terms of Federal and State programs in which States determine eligibility levels, some areas of the country offer extremely low levels of benefits (U.S. House of Representatives, 1991). For example, in Alabama the maximum cash assistance benefit for a mother with two children is $124 per month. Other programs, such as Food Stamps, do not provide enough additional assistance to ensure that most of these families reach even a poverty-level standard of living. The earned income tax credit in the United States provides additional help to low-income working families but it, too, is limited in scope and restricted to those with quite low levels of family income.

In contrast, almost all other industrialized countries provide benefits for children, either in cash or through refundable tax credits, regardless of family income (Kahn and Kammerman, 1988). These programs, which usually provide payments for each child in the family, are meant to help defray the additional costs to families for rearing children. In addition, many European countries provide cash benefits to replace income forgone because of the birth of a child, and protect the job of the mother while she is on maternity leave (Kahn and Kammerman, 1988; Miller, 1988). Cash benefits replace 80 to 100 percent of wages, and generally run for at least 3 months and sometimes for as long as 1 year. Paid leave of 5 to 6 months is not uncommon. Consequently, one of the major differences between the United States and European countries is the availability of support even for those who are not poor.

These differences do not necessarily translate into enriched care for young children, but they reflect policy choices by European countries to provide additional support to families with children. They also mean that young, working families are much better protected than their counterparts in the United States against lowered incomes as a result of their decision to rear children. European families are more likely to be in a better position to meet the nutritional, housing, and other needs of children—all of which may have important impacts on health. Although not empirically demonstrated, it is plausible that these social and economic factors affect the overall health status of mothers and young infants, and may also be related to other risk factors that can be more closely linked to birth weight and infant mortality: demographic and behavioral characteristics of pregnant women.

Elevated maternal and fetal risks

As suggested by Wise (1990), elevated maternal and fetal risks can generally be categorized as demographic factors, medical conditions, and behavioral characteristics of mothers. Extensive research has been conducted on many characteristics in each of the groups. Moreover, major reviews have been conducted about the relationship of these factors to infant mortality, as well as to low birth weight and gestational age. The IOM report (1985) for example, represents a landmark effort to synthesize information on risk factors and low birth weight. In the following section, we discuss some of the findings on elevated maternal and fetal risk factors. Lacking from this discussion, however, are extensive international comparisons that could help indicate how much of the cross-country differences in infant mortality are explained by such factors.

Demographic characteristics

Demographic characteristics and elevated risks of infant mortality have been widely studied. In the United States, for example, black IMRs are approximately twice as high as those of white IMRs. When the overall rates are disaggregated into birth-weight-specific survival and birth weight distribution, it seems that the source of the difference in overall rates is principally in birth weight distributions. Sappenfield et al. (1987), for example, examined both the neonatal and post-neonatal infant mortality rates of black and white infants and found that, for birth weight and gestational age combinations of 3,500 grams or less and 38 weeks or less, the neonatal mortality rate was lower for black infants than for white infants. At levels above these measures, however, black infants had higher neonatal mortality rates as well as higher post-neonatal mortality rates.

Wegman (1991) và những người khác cho rằng sự khác biệt về tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giữa trẻ sơ sinh đen và trắng ở Hoa Kỳ một phần là do sự khác biệt trong việc tiếp cận chăm sóc trước khi sinh. Tiền đề này phù hợp với những phát hiện từ một nghiên cứu gần đây của Rawlings và Weir (1991) về tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giữa những người phụ thuộc của các binh sĩ tại Trung tâm Y tế Quân đội Madigan ở bang Washington. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh da đen tương tự như trẻ sơ sinh da trắng và thấp hơn đáng kể so với trẻ sơ sinh da đen trong dân số nói chung. Các tác giả kết luận rằng tỷ lệ tử vong thấp hơn ở trẻ sơ sinh da đen có thể là do được đảm bảo tiếp cận chăm sóc sức khỏe và trình độ học vấn gia đình và thu nhập cao hơn so với toàn quốc. Mặc dù việc tiếp cận chăm sóc trước khi sinh có thể góp phần làm giảm sự khác biệt IMR đen và trắng, cần nghiên cứu thêm để xác định vai trò cụ thể của nó so với vai trò của các loại chăm sóc khác (ví dụ, chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh) và các yếu tố kinh tế xã hội và hành vi.

Một đặc điểm nhân khẩu học khác đã được tìm thấy để phân biệt rủi ro tử vong ở trẻ sơ sinh là tình trạng hôn nhân. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh của những đứa trẻ sinh ra từ những bà mẹ chưa lập gia đình cao hơn khoảng hai lần so với tỷ lệ trẻ sinh ra cho các bà mẹ đã kết hôn. Nghiên cứu cho thấy rằng ngay cả khi các đặc điểm khác (như giáo dục) được tính đến, tình trạng hôn nhân vẫn tiếp tục dự đoán rủi ro tử vong ở trẻ sơ sinh. Ví dụ, IMR cho các bà mẹ trên 20 tuổi đã được tìm thấy là cao hơn đối với phụ nữ chưa kết hôn, được giáo dục đại học so với những người bỏ học ở trường trung học, đã kết hôn (Eberstadt, 1991). Tuy nhiên, mối quan hệ cụ thể giữa tình trạng hôn nhân và IMR rất phức tạp và chưa được phân định rõ ràng.

IMRS cao hơn trung bình đã được ghi nhận ở Hoa Kỳ cho phụ nữ dưới 20 tuổi (thanh thiếu niên) và cho các bà mẹ lớn tuổi. Ví dụ, những đứa trẻ sinh ra cho thanh thiếu niên có từ 1,5 đến 3,5 lần nguy cơ tử vong, so với những người sinh ra ở các bà mẹ 25-29 tuổi (Friede et al., 1987). Tuy nhiên, phân tích sâu hơn chỉ ra rằng phần lớn sự khác biệt trong IMR do tuổi mẹ có thể được tính bằng phân phối cân nặng khi sinh. Ngoại trừ trong trường hợp các bà mẹ tuổi teen rất trẻ (tức là, những người dưới 15 tuổi), kiểm soát cân nặng khi sinh giúp loại bỏ nguy cơ tử vong ở trẻ sơ sinh cao hơn của trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, cân nặng khi sinh không chiếm nhiều nguy cơ tương đối cao hơn đối với tử vong sau khi sinh của các bà mẹ tuổi teen.

Trong số các nhóm các yếu tố nguy cơ của mẹ có liên quan đến tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, các đặc điểm nhân khẩu học là dễ tiếp cận nhất để so sánh quốc tế. Ví dụ, trong một phần sau của bài viết này, chúng tôi kiểm tra mối quan hệ giữa tuổi mẹ và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ở các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, ngay cả khi các so sánh nhân khẩu học như vậy được thực hiện, tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhớ rằng các biến thể của đặc điểm như vậy phản ánh sự khác biệt phức tạp trong thành phần văn hóa xã hội và các hệ thống dịch vụ y tế và xã hội. Ví dụ, mối liên quan giữa tình trạng hôn nhân của các bà mẹ và rủi ro tử vong ở trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ có thể không mạnh ở Thụy Điển, nơi việc sống thử bởi các cặp vợ chồng chưa kết hôn là phổ biến hơn. Ngoài ra, một số đặc điểm nhân khẩu học, chẳng hạn như chủng tộc, rất quan trọng để so sánh ở Hoa Kỳ nhưng ít hơn trong so sánh quốc tế vì nhiều quốc gia khác là đồng nhất chủng tộc hơn.

Điều kiện y tế

Báo cáo IOM (1985) đã thảo luận về nhiều điều kiện y tế đã được tìm thấy có liên quan đến cân nặng khi sinh thấp. Các điều kiện y tế bao gồm những điều kiện trước khi mang thai và những người khác có mặt khi mang thai. Cái trước được đặc trưng, ​​ví dụ, bởi trọng lượng của mẹ thấp đối với chiều cao, sự hiện diện của các bệnh được lựa chọn như bệnh tiểu đường hoặc tăng huyết áp mãn tính và tiền sử sản khoa kém (ví dụ, tiền sử phá thai nhiều tự phát). Rủi ro y tế trong thai kỳ hiện tại bao gồm tăng cân kém trong thai kỳ, và phát triển tăng huyết áp và tiền sản giật. Trong phân tích tổng hợp các kết quả từ 900 nghiên cứu được công bố về các yếu tố nguy cơ liên quan đến sự chậm phát triển sinh non và tăng trưởng trong tử Cả sinh non và chậm phát triển trong tử cung. Ông cũng phát hiện ra rằng dinh dưỡng thai kỳ kém làm tăng nguy cơ cân nặng khi sinh thấp vì ảnh hưởng của nó đối với chậm phát triển trong tử cung. Mặc dù các điều kiện y tế đã được xác định là các yếu tố nguy cơ đối với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, nhưng không rõ ràng, tại thời điểm hiện tại, sự khác biệt về tỷ lệ mắc các điều kiện y tế như vậy có liên quan đến sự khác biệt về IMR giữa các quốc gia.

Behavioral characteristics

The use of drugs, alcohol, and tobacco are factors that are associated with higher risks of infant death. The effect of smoking has been the most widely studied. Kleinman and Madans (1985) estimated, for example, that smoking contributes to 19 percent of the low-birth-weight rate in the United States. Smoking is also a factor that Kramer identified as a well-established independent determinant of birth weight. The impact of maternal cocaine addiction on infant health has been of concern because it is so prevalent in many areas of the United States. Its effects on infant mortality, however, remain unclear (Wise, 1990).

Data limitations largely preclude international comparisons of behavioral risk factors. The limited information that is available fails to indicate that these important risk factors necessarily explain international differences. For example, a six-country study of prevalence of smoking indicates that the United States was second only to Sweden in terms of low rates of smoking prevalence among young women (Pierce, 1989). Rates were higher in Great Britain, Canada, Norway, and Australia. This study was not tied to infant mortality issues, however. Further research is required to determine the role of smoking in international IMR comparisons.

Access to health services

The amount and quality of health services can influence outcomes. The influence may stem from overcoming negative risk factors, such as poor nutrition in young women living in poor areas, or from directly improving the survival chances of very low-birth-weight babies. The risk of having low-birth-weight babies may be increased because of poverty and other social problems, but health care interventions can make up for some of the deficiencies (Institute of Medicine, 1988). Access to health care for pregnant women and infants refers to many dimensions including their timing (onset and frequency of prenatal care, for example) and the availability of advanced perinatal technology (such as neonatal intensive care) for treating high-risk infants.

Compared with other countries, the United States does well in terms of general access to perinatal care, but poorly in terms of prenatal care and other rather routine health-care services. Many European countries (e.g., Norway, Netherlands, United Kingdom) have long-standing traditions of offering not only prenatal services but also followup home visits after the delivery (Miller, 1988). The philosophy is that the mother and baby are likely to need support, not to check up on problems but to provide good care. Some European countries even offer financial incentives for participating in prenatal programs. Because these countries offer nearly universal coverage for their citizens, even low-income families have access to available services. A study of 10 European countries (Miller, 1988) concluded that the incentives for participating in prenatal care were strong and the barriers were virtually non-existent in all of the study countries.

In the United States, women without insurance coverage are less likely to receive prenatal care or to start such care as early as is recommended. Even when the mother is eligible for Medicaid, which covers prenatal care, problems with finding physicians willing to participate in the program have resulted in spotty access to these services (Physician Payment Review Commission, 1991). The same factors that result in high risk of problem pregnancies are correlated with low rates of prenatal care. In addition, poor mothers who face problems of housing and transportation are also less likely to be able to get the services, even when they are offered (Institute of Medicine, 1988).

The availability of high-technology perinatal care in the United States has compensated, to some extent, for the large number of low-birth-weight babies. The availability and accessibility of this technology, however, varies across the United States. For example, mothers who are not privately insured or are not covered by Medicaid may have problems getting this level of care. Consequently, although the United States may invest more in perinatal technology than do other industrialized countries (Levin, 1990), full advantage of such technology will not be realized unless such care is universally accessible in the United States.

Low birth weight

As indicated by the preceding discussion, many of the risk factors related to infant mortality occur as a result of low birth weight. For this reason, causes of low birth weight have been the focus of extensive research (Institute of Medicine, 1985). The emphasis on low birth weight, and particularly very low birth weight, of infants is warranted in light of its pronounced effect on the risk of infant deaths. In the United States, for example, infants weighing less than 750 grams, although they constitute only 0.3 percent of all births, account for 25 percent of deaths in the first year of life (Overpeck, Hoffman, and Prager, 1992).

Trong các nghiên cứu quốc tế, cả phân bố cân nặng khi sinh và sự sống sót theo trọng số sinh ở các quốc gia được chọn đã được kiểm tra. Một phân tích của Hoffman, Bergsjo và Denman (1990) về các trường hợp tử vong chu sinh theo cân nặng sinh ra ở Nhật Bản, Na Uy và Hoa Kỳ minh họa cho nghiên cứu về rủi ro sinh tồn. Phân tích đó cho thấy rằng đối với hầu hết các loại cân nặng khi sinh, các rủi ro cụ thể theo cân nặng khi sinh của cả trẻ sơ sinh da trắng Hoa Kỳ và trẻ sơ sinh da đen có thể so sánh với trẻ sơ sinh ở Nhật Bản và Na Uy. Đáng chú ý, trong các loại cân nặng khi sinh dưới 2.500 gram, tỷ lệ của Hoa Kỳ thực sự thấp hơn so với hai quốc gia khác. Trong thực tế là cả Nhật Bản và Na Uy đều có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp hơn nhiều so với Hoa Kỳ, việc phát hiện tỷ lệ tử vong đặc hiệu cho bệnh có cân nặng tương đương cho thấy tỷ lệ tương đối thấp của Hoa Kỳ là do tỷ lệ cao hơn Sinh có cân nặng khi sinh thấp.

So sánh quốc tế về nguyên nhân của sự khác biệt sẽ tiếp tục dựa vào các nghiên cứu đa quốc gia chuyên ngành vì dữ liệu thống nhất về các biện pháp như tỷ lệ tử vong dành riêng cho trọng lượng sinh thường không có sẵn. Chỉ có một vài so sánh có thể được thực hiện với dữ liệu có sẵn. Hai phần tiếp theo trình bày kết quả từ một phân tích dựa trên dữ liệu còn tồn tại từ Liên Hợp Quốc và Hoa Kỳ. Những dữ liệu này được sử dụng để ước tính ảnh hưởng của phân phối sinh theo cân nặng khi sinh và tuổi mẹ đối với sự khác biệt về IMR giữa Hoa Kỳ và các quốc gia khác.

Phân bố cân nặng khi sinh và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh

Dữ liệu của Liên Hợp Quốc về phân phối cân nặng khi sinh cho nhiều quốc gia cho phép chúng tôi đưa ra ước tính về sự khác biệt về IMR giữa Hoa Kỳ và các quốc gia khác có thể là do sự khác biệt trong phân phối cân nặng khi sinh. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh dành riêng cho sinh con của Hoa Kỳ trong năm 1985 đã được Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia (1985) và 1985 cung cấp cho chúng tôi được cung cấp cho chúng tôi được trích xuất từ ​​Sách Năm nhân khẩu học của Liên Hợp Quốc (1984-87).

Chúng tôi đã sử dụng hai chiến lược để tiến hành các mô phỏng. Đầu tiên, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh theo cân nặng khi sinh đối với Hoa Kỳ đã được tiêu chuẩn hóa về phân phối cân nặng khi sinh của một số quốc gia công nghiệp có IMR thấp hơn Hoa Kỳ. Do đó, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh của Hoa Kỳ được điều chỉnh, phản ánh tỷ lệ dự kiến ​​của Hoa Kỳ nếu Hoa Kỳ có các phân phối cụ thể về trọng lượng sinh của các quốc gia khác. Cách tiếp cận này đã được áp dụng trong nghiên cứu trước (Guyer, Wallach và Rosen, 1982; Madans, Kleinman và Machlin, 1981) .3 Thứ hai, chúng tôi đã áp dụng phần trăm trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh (tức là, dưới 1.500 gram ) trong số các quốc gia so sánh với phân phối cân nặng khi sinh của Hoa Kỳ và có được tỷ lệ điều chỉnh của Hoa Kỳ. Chiến lược này về nguyên tắc tương tự như lần đầu tiên, nhưng chỉ đơn giản là phân phối phân bố trọng lượng khi sinh (nghĩa là, dưới 1.500 gram và lớn hơn hoặc bằng 1.500 gram) để tập trung vào ảnh hưởng của sự khác biệt về tỷ lệ phần trăm ở trẻ sơ sinh rất thấp đối với sự khác biệt về sự khác biệt trong IMRS.

Các mô phỏng cho rằng phân phối cân nặng khi sinh và tử vong dành riêng cho trọng lượng sinh là độc lập và đường cong tử vong đặc hiệu cho trọng lượng sinh học của Hoa Kỳ là một đại diện tốt cho các quốc gia so sánh. Wilcox và Russell (1983) đã chỉ ra rằng, do mối tương quan giữa phân bố cân nặng khi sinh và tỷ lệ tử vong đặc hiệu theo cân nặng khi sinh, các quy trình tiêu chuẩn hóa có thể dẫn đến kết quả sai lệch. Theo các vấn đề phương pháp luận này, kết quả mô phỏng của chúng tôi không nên được xem là phương tiện để sắp xếp lại thứ hạng quốc tế. Thay vào đó, chúng phục vụ để minh họa tác động quan trọng tiềm tàng của phân phối cân nặng khi sinh đối với IMR của Hoa Kỳ khi so sánh với các quốc gia khác. Họ cũng cho thấy IMR của Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng như thế nào nếu phân phối cân nặng khi sinh của Hoa Kỳ chuyển sang những người hiện đang tồn tại ở các quốc gia khác. Nói cách khác, các mô phỏng giải quyết câu hỏi, Điều gì sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ có phân phối cân nặng khi sinh của Canada hay Nhật Bản?

Bảng 3 chiếm phần trăm sinh dưới 1.500 gram (cân nặng khi sinh rất thấp) và phần trăm sinh dưới 2.500 gram (cân nặng khi sinh thấp) vào năm 1985. Sáu quốc gia được chọn làm so sánh minh họa với Hoa Kỳ. Tất cả các quốc gia so sánh đều có IMR vào năm 1985 thấp hơn so với Hoa Kỳ và phân phối cân nặng khi sinh được xuất bản trong cuốn sách Năm nhân khẩu học của Liên Hợp Quốc (1984-87). presents percent of births of less than 1,500 grams (very low birth weight) and the percent of births less than 2,500 grams (low birth weight) in 1985. Six countries were selected as illustrative comparisons with the United States. All of the comparison countries had an IMR in 1985 that was lower than that of the United States, and had birth weight distributions published in the United Nations Demographic Year Book (1984-87).

bàn số 3

Phần trăm sinh dưới 1.500 gram, 1 dưới 2.500 gram, 2 và không xác định

Quốc giaPhần trăm

Dưới 1.500 gramDưới 2.500 gramkhông xác định
Hoa Kỳ1.2 6.7 0.1
Canada0.9 5.8 0.3
Nhật Bản0.4 5.4 0.0
Na Uy0.6 4.1 0.2
Thụy Điển0.7 4.4 1.3
Vương quốc Anh1.3 10.7 0.2
Tây Đức0.2 5.7 0.2

Các chỉ số về tổng số phân phối cân nặng khi sinh của các quốc gia trong Bảng 3 làm nổi bật tỷ lệ mắc bệnh trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh thấp hơn ở Hoa Kỳ. Ví dụ, 6,7 phần trăm ca sinh sống ở Hoa Kỳ có cân nặng khi sinh thấp và 1,2 phần trăm có cân nặng khi sinh rất thấp. Tỷ lệ này cao hơn so với các quốc gia khác trong so sánh, ngoại trừ Vương quốc Anh. Cột thứ ba của Bảng 3 đưa ra tỷ lệ phần trăm sinh sống được báo cáo với cân nặng khi sinh không được điều chỉnh. Tỷ lệ phần trăm thấp đối với tất cả các quốc gia trừ Thụy Điển.Table 3 highlight the higher incidence of low-birth-weight infants in the United States. For example, 6.7 percent of the live births in the United States were of low birth weight and 1.2 percent were of very low birth weight. These percentages were higher than those of the other countries in the comparison, with the exception of the United Kingdom. The third column of Table 3 gives the percentage of live births that were reported with birth weight “unstated.” The percentage was low for all countries except Sweden.

Bảng 4 trình bày kết quả của các mô phỏng. Cột 1 trong Bảng 4 liệt kê IMR thực tế của 7 quốc gia vào năm 1985. Trái ngược với IMR của Hoa Kỳ là 10,4, Vương quốc Anh có IMR là 9,4, Nhật Bản có tỷ lệ thấp nhất là 5,5 trên 1.000 ca sinh sống. Cột 2 trình bày IMR Hoa Kỳ dự kiến ​​nếu Hoa Kỳ có phân phối cân nặng khi sinh của từng trong số 6 quốc gia khác. Cột 3 trình bày kết quả dựa trên tỷ lệ phần trăm sinh do cân nặng khi sinh rất thấp. presents the results of the simulations. Column 1 in Table 4 lists the actual IMR of the7 countries in 1985. In contrast to the U.S. IMR of 10.4, the United Kingdom had an IMR of 9.4, Japan had the lowest rate of 5.5 per 1,000 live births. Column 2 presents the expected U.S. IMR if the United States had the birth weight distribution of each of the other 6 countries. Column 3 presents the results based on the percentage of births by very low birth weight.

Bảng 4

Các tác động ước tính của phân phối cân nặng khi sinh đối với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh (IMR) so sánh: Hoa Kỳ và các quốc gia được chọn, 1985

Quốc giaPhần trăm
(1)
Dưới 1.500 gram
(2)
Dưới 2.500 gram
(3)
Hoa Kỳ10.4 CanadaCanada
Vương quốc Anh9.4 10.9 10.4
Tây Đức8.9 8.1 6.3
Na Uy8.5 7.5 7.8
Canada7.9 8.9 8.9
Thụy Điển6.8 10.0 8.1
Nhật Bản5.5 6.6 7.0

Na Uy

Thụy Điển

Vương quốc AnhTable 4 shows that the adjusted U.S. IMR, based on the percentage of births that are of very low birth weight in the comparison countries, is very similar, in many cases, to that derived by standardizing on the full range of birth weight values. Hence, it appears that much of the birth-weight-associated differences in IMRs between the United States and other countries is because of the higher proportion of very low-birth-weight babies born in the United States.

Tây Đức

Tuổi của mẹ và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh

Một yếu tố khác liên quan đến tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là tuổi mẹ. Mối quan hệ giữa nguy cơ tử vong ở trẻ sơ sinh và tuổi mẹ ít trực tiếp hơn so với những rủi ro đó và cân nặng khi sinh thấp. Đối với tỷ lệ tử vong chu sinh, ít nhất, những rủi ro cao hơn của trẻ sơ sinh đối với các bà mẹ tuổi teen là do xu hướng các bà mẹ tuổi teen có trẻ sơ sinh sinh con thấp hơn. Tuy nhiên, một phân tích riêng về phân phối dành riêng cho tuổi mẹ có thể cung cấp thêm thông tin cho việc xem xét các phương pháp để giảm sự khác biệt về tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giữa Hoa Kỳ và các nước công nghiệp khác. May mắn thay, dữ liệu quốc tế về tuổi mẹ có sẵn.

Bảng 5 cho thấy những ảnh hưởng của sự khác biệt trong phân phối tuổi mẹ giữa Hoa Kỳ và các quốc gia khác đối với IMRS. Thông tin trong bảng này tương tự như trong Bảng 4 cho cân nặng khi sinh và được bắt nguồn theo cách tương tự. Tiêu chuẩn hóa tỷ lệ tử vong dành riêng cho tuổi mẹ của Hoa Kỳ đối với phân phối tuổi mẹ của các quốc gia khác dẫn đến tỷ lệ điều chỉnh thấp hơn cho Hoa Kỳ trong mọi trường hợp. Do đó, tất cả các quốc gia so sánh dường như có sự phân bố tuổi của mẹ ủng hộ sự sống còn của trẻ sơ sinh. Mặc dù dữ liệu như vậy không được trình bày trực tiếp trong Bảng 5, nhưng các phân phối tuổi mẹ chiếm khoảng một phần tư sự khác biệt giữa IMR của Hoa Kỳ và nhiều quốc gia so sánh. shows the effects of differences in maternal age distributions between the United States and other countries on IMRs. The information in this table is analogous to that in Table 4 for birth weight and was derived in a similar fashion. Standardizing U.S. maternal age-specific mortality rates on the maternal age distributions of the other countries resulted in lower adjusted rates for the United States in all cases. Hence, all of the comparison countries appear to have a maternal age distribution that favors infant survival. Although such data are not directly presented in Table 5, the maternal age distributions account for approximately one-fourth of the difference between the IMR of the United States and many of the comparison countries.

Bảng 5

Các tác động ước tính của phân phối sinh, theo độ tuổi của mẹ đối với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh (IMR) so sánh: Hoa Kỳ và các quốc gia được chọn, 1985

Quốc giaIMR1 thực tếĐiều chỉnh IMR2 của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ10.4 -
Vương quốc Anh9.4 10.2
Tây Đức8.9 9.7
Na Uy8.5 9.8
Pháp8.3 9.8
nước Hà Lan8.0 9.5
Canada7.9 9.9
Thụy Điển6.8 9.7
Nhật Bản5.5 9.4

IMR của Hoa Kỳ được điều chỉnh thấp hơn, so với IMR thực tế của Hoa Kỳ, trong Bảng 5 một phần là do tỷ lệ trẻ sơ sinh sinh ra từ các bà mẹ tuổi teen ở Hoa Kỳ cao hơn. Điều này được minh họa trong Bảng 6 trình bày phần trăm sinh cho các bà mẹ dưới 20 tuổi và trên 40 tuổi. Ví dụ, 13 phần trăm sinh nở của Hoa Kỳ là cho các bà mẹ tuổi teen, trái ngược với 6,1 phần trăm đối với các bà mẹ tuổi teen ở Canada. Mặt khác, Hoa Kỳ có tỷ lệ sinh được sinh ra từ các bà mẹ lớn tuổi hơn và cao hơn so với nhiều quốc gia khác trong so sánh.Table 5 are in part because of the higher proportion of infants born to teenage mothers in the United States. This is illustrated in Table 6 which presents the percent of births to mothers younger than 20 years of age and older than 40 years of age. For example, 13 percent of the U.S. births were to teenage mothers, in contrast to 6.1 percent to teenage mothers in Canada. On the other hand, the United States has a lower proportion of births born to older, and higher risk, mothers than many of the other countries in the comparison.

Bảng 6

Phần trăm sinh cho các bà mẹ dưới 20 tuổi và trên 40 tuổi: 1985

Quốc giaIMR1 thực tếĐiều chỉnh IMR2 của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ
Hoa Kỳ12.7 0.8
Vương quốc Anh8.7 1.1
Tây Đức3.5 1.3
Na Uy4.2 1.3
Pháp3.2 1.2
nước Hà Lan2.3 1.0
Canada6.1 0.7
Thụy Điển3.2 1.7
Nhật Bản1.3 0.6

IMR của Hoa Kỳ được điều chỉnh thấp hơn, so với IMR thực tế của Hoa Kỳ, trong Bảng 5 một phần là do tỷ lệ trẻ sơ sinh sinh ra từ các bà mẹ tuổi teen ở Hoa Kỳ cao hơn. Điều này được minh họa trong Bảng 6 trình bày phần trăm sinh cho các bà mẹ dưới 20 tuổi và trên 40 tuổi. Ví dụ, 13 phần trăm sinh nở của Hoa Kỳ là cho các bà mẹ tuổi teen, trái ngược với 6,1 phần trăm đối với các bà mẹ tuổi teen ở Canada. Mặt khác, Hoa Kỳ có tỷ lệ sinh được sinh ra từ các bà mẹ lớn tuổi hơn và cao hơn so với nhiều quốc gia khác trong so sánh.

Bảng 6

Phần trăm sinh cho các bà mẹ dưới 20 tuổi và trên 40 tuổi: 1985

Dưới 20 tuổi

Trên 40 tuổi

Mặc dù ảnh hưởng của thực hành đăng ký đối với bảng xếp hạng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh khó có thể được hiểu đầy đủ, thông tin giai thoại cho thấy nguồn biến đổi giữa các quốc gia này có thể chiếm một lượng đáng kể sự khác biệt trong IMRS. Việc sử dụng các biện pháp như tỷ lệ tử vong của Feto-Infant giúp cung cấp các so sánh đồng nhất hơn bằng cách giảm tính chủ quan trong việc xác định muộn (hơn 28 tuần thai) tử vong của thai nhi so với tử vong ở trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong của Feto-Infant không giải thích cho các biến thể trong các trường hợp tử vong sớm của thai nhi, đây có thể là một nguồn khác biệt lớn hơn liên quan đến đo lường quốc tế.

Điều hợp lý là đặc tính của hệ thống chăm sóc sức khỏe ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc đăng ký tử vong ở trẻ sơ sinh mà không thể được đưa vào chỉ định của Live Live. Hoa Kỳ, chẳng hạn, đã có một tư thế rất tích cực đối với chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh (Levin, 1990). Theo thực tế này, những đứa trẻ có cân nặng khi sinh rất thấp có nguy cơ tử vong cao trong ngày đầu tiên có xu hướng được tính là sinh sống. Ở các quốc gia nơi hệ thống chăm sóc sức khỏe không chú trọng đến việc chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh, kết quả của những lần mang thai như vậy không có khả năng được ghi nhận là sinh sống. Do đó, có vẻ như hệ thống chăm sóc sức khỏe của một quốc gia càng có nhiều tài nguyên để tiết kiệm trẻ sơ sinh có nguy cơ cao, việc đăng ký của nó sẽ báo cáo IMR càng cao hơn.

Bên cạnh các vấn đề đo lường, sự khác biệt trong bảng xếp hạng quốc tế về tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh có thể được hiểu rõ hơn bằng cách so sánh các biến thể trong tập hợp các yếu tố phức tạp làm tăng hoặc giảm thiểu rủi ro tử vong ở trẻ sơ sinh. Nghiên cứu ICE cho thấy tỷ lệ tử vong chu sinh theo trọng số sinh ở Hoa Kỳ có thể so sánh với Nhật Bản và Na Uy, hai quốc gia có IMRS tổng thể thấp hơn đáng kể so với Hoa Kỳ. Kết quả này cho thấy rằng chăm sóc chu sinh ở Hoa Kỳ có thể thành công trong việc tăng cường khả năng sống sót của trẻ sơ sinh có nguy cơ cao. Theo ghi nhận của Wise (1990) và những người khác, một nỗ lực lớn của hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ hướng đến chăm sóc sức khỏe sinh sản trong 20 năm qua đã tập trung vào các phương tiện công nghệ để cải thiện rủi ro tử vong chu sinh. Tiến bộ trong lĩnh vực này dường như đang được tiếp tục. Ví dụ, theo báo cáo của Wegman (1991), phần lớn sự suy giảm IMR ở Hoa Kỳ từ năm 1989 đến 1990 có thể được quy cho liệu pháp chất hoạt động bề mặt, góp phần gây ra sự suy giảm của tử vong ở trẻ sơ sinh vì hội chứng suy hô hấp; Tỷ lệ tử vong cho nguyên nhân này giảm khoảng một phần ba.

Mặc dù các can thiệp chu sinh, và đặc biệt là sự phân vùng của khu vực có nguy cơ cao và chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh, đã là một lực lượng chính đằng sau tỷ lệ tử vong sơ sinh của Hoa Kỳ suy giảm, (Wise, 1990) thực tế là các biến thể vẫn tồn tại trong quốc gia này trong tỷ lệ tử vong chu sinh cho thấy rằng những nỗ lực tiếp theo là cần thiết để mở rộng quyền truy cập vào các mức độ chăm sóc như vậy. Hơn nữa, một số nhà quan sát đã lưu ý rằng cấu trúc tài chính thay đổi của chăm sóc y tế ở Hoa Kỳ đã tạo ra sự khác biệt trong việc truy cập bằng cách bảo hiểm y tế có sẵn không (Wise, 1990). Theo kịch bản này, những người dễ bị tổn thương sẽ là những người không được bảo hiểm y tế tư nhân cũng không đủ điều kiện để được bảo hiểm bởi Trợ cấp y tế.

Bên cạnh việc cải thiện khả năng tiếp cận các can thiệp chu sinh, có vẻ như những cải thiện đáng kể trong tương lai về tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ có thể phụ thuộc vào thành tích của các can thiệp trước khi sinh ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân phối sinh khi sinh. Như các mô phỏng của chúng tôi đã chứng minh, những cải tiến trong phân phối cân nặng khi sinh của chúng tôi tiếp cận với nhiều quốc gia công nghiệp khác và có thể cải thiện đáng kể IMR của Hoa Kỳ và theo ngụ ý, xếp hạng quốc tế của chúng tôi. Trọng tâm của loại dịch vụ này có thể là dinh dưỡng, có thể dẫn đến việc cải thiện phân phối cân nặng khi sinh.

Sự phát triển trong tương lai trong các can thiệp chăm sóc trước khi sinh có thể được xem trong hai giai đoạn. Đầu tiên là để đảm bảo quyền truy cập thống nhất vào các dịch vụ, một nỗ lực hướng đến cung cấp. Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ, so với các quốc gia công nghiệp hóa khác, khác nhau về cơ bản về mặt hệ thống so với quyền truy cập vào các dịch vụ y tế và xã hội. Sự khác biệt này trong loại hệ thống chăm sóc sức khỏe chắc chắn đóng góp, ở một mức độ nào đó, vào sự khác biệt về kết quả cân nặng khi sinh được quan sát. Một chỉ số về tầm quan trọng của yếu tố này là phát hiện nghiên cứu Madigan, điều này cho thấy rằng một hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn cầu (cho nhân viên quân sự) giúp tạo ra các IMR thống nhất cho tất cả các thành viên của hệ thống.

Với nỗ lực cung cấp, hiệu quả của các can thiệp trước khi sinh sẽ phụ thuộc vào các cách để thay đổi các lực lượng kinh tế xã hội góp phần tăng rủi ro của mẹ và rất có thể, để giảm sử dụng chăm sóc trước khi sinh. Các lực lượng kinh tế xã hội tương tự ảnh hưởng đến nhu cầu chăm sóc trước khi sinh cũng ảnh hưởng đến các quyết định và hành vi dự bị. Như các mô phỏng của chúng tôi về tuổi mẹ cho thấy, một sự thay đổi trong mô hình sinh con theo tuổi mẹ có thể làm giảm IMR của Hoa Kỳ. Mức độ thay đổi thời gian mang thai và nhu cầu chăm sóc trước khi sinh, ảnh hưởng đến IMR của Hoa Kỳ sẽ phụ thuộc vào những thay đổi trong các lực lượng kinh tế xã hội đó. Một số nhà quan sát đã cho rằng những thay đổi kinh tế và xã hội rộng lớn hơn, chẳng hạn như giảm nghèo và cải thiện cơ hội kinh tế, được yêu cầu để giảm IMR dư thừa ở Hoa Kỳ. Những thay đổi trong các yếu tố này khó thực hiện hơn là tăng cường sự sẵn có của các dịch vụ y tế, nhưng những cải tiến trong lĩnh vực này sẽ có tác động quan trọng đến IMR của Hoa Kỳ cũng như các biện pháp khác về chất lượng cuộc sống và thành công kinh tế trong IMR.

Tóm lại, mặc dù bảng xếp hạng quốc tế của IMR thường được thực hiện để thúc đẩy các cuộc tranh luận chính sách, nhưng những so sánh như vậy là hữu ích nhất nếu chúng ta có thể phát triển một ý tưởng tốt hơn về những gì đằng sau chúng. Bài viết này đã khảo sát một loạt các yếu tố đằng sau bảng xếp hạng Hoa Kỳ trong các so sánh quốc tế. Mặc dù chúng tôi không thể gán trọng số cho các lý do đa dạng cho thứ hạng tương đối thấp của chúng tôi, mục tiêu của chúng tôi là làm nổi bật thực tế rằng phản ứng chính sách đối với bảng xếp hạng có thể được tăng cường bằng cách hiểu rõ hơn về ý nghĩa của bảng xếp hạng và không có nghĩa là gì. Tuy nhiên, chúng tôi kết luận rằng các IMR nên được xem là phản ánh tình trạng sức khỏe và kinh tế xã hội và không chỉ chăm sóc sức khỏe, và để đạt được những cải tiến trong IMR sẽ đòi hỏi nhiều hơn là công nghệ mới.

Ghi chú kỹ thuật

Bảng 7 minh họa quy trình tiêu chuẩn hóa trong đó tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh có trọng lượng sinh của Hoa Kỳ được áp dụng cho phân phối sinh sống đặc hiệu theo trọng lượng sinh ở Canada. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh có trọng lượng sinh con của Hoa Kỳ trong cột 2 được nhân với số lượng sinh tương ứng của Hoa Kỳ trong cột 3 và sinh Canada trong cột 4, tương ứng. Các sản phẩm của chức năng này được trình bày trong cột 5 cho Hoa Kỳ và trong cột 6 cho Canada. Tổng của các hàng trong cột 5 là số lượng tử vong ở trẻ sơ sinh của Hoa Kỳ, khi chia cho số ca sinh của Hoa Kỳ, mang lại IMR thực tế của Hoa Kỳ. Tổng số hàng trong Cột 6 là số lượng tử vong ở trẻ sơ sinh của Hoa Kỳ nếu Hoa Kỳ có phân phối cân nặng khi sinh của Canada. Số tiền này được chia cho tổng số ca sinh nở của Canada để rút ra một IMR Hoa Kỳ dự kiến, khi tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh của Hoa Kỳ được chuẩn hóa trong phân phối sinh của Canada. illustrates the standardization procedure in which birth-weight-specific infant death rates of the United States are applied to the birth-weight-specific live birth distribution in Canada. The U.S. birth-weight-specific infant death rates in column 2 are multiplied against the corresponding number of U.S. births in column 3 and Canadian births in column 4, respectively. The products of this function are presented in column 5 for the United States, and in column 6 for Canada. The sum of the rows in column 5 is the actual number of U.S. infant deaths which, when divided by the number of U.S. births, yields the actual U.S. IMR. The sum of rows in column 6 is the expected number of U.S. infant deaths if the United States had the Canadian birth weight distribution. This sum is divided by the total number of Canadian births to derive an expected U.S. IMR, when U.S. infant death rates are standardized on the Canadian birth distribution.

Bảng 7

Tiêu chuẩn hóa để rút ra tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh (IMR) dự kiến ​​của Hoa Kỳ dựa trên phân phối cân nặng khi sinh của Canada: 1985

Cân nặng khi sinh tính bằng gram (1)
(1)
Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh theo cân nặng của Hoa Kỳ (2)
(2)
Hoa Kỳ sinh sống (3)
(3)
Sinh sống của Canada (4)
(4)
Tử vong ở trẻ sơ sinh

U.S.(5)
(5)
Canada(6)
(6)
Tổng cộng-3,760,833 367,227 39,042 3,250
Dưới 5010.8932 4,860 215 4,341 192
-Dưới 501Dưới 501--
Dưới 5010.5522 17,743 1,161 9,798 641
-Dưới 501(0.1)--
Dưới 5010.1419 23,118 1,732 3,279 246
-Dưới 501Dưới 501--
Dưới 5010.0526 48,404 3,923 2,546 206
-Dưới 501(0.1)--
Dưới 5010.0203 159,588 14,014 3,240 284
-Dưới 501(0.1)--
Dưới 5010.0042 3,502,342 345,204 14,710 1,450
-Dưới 501(0.1)--
Dưới 5010.2360 4,780 978 1,128 231
-Dưới 501(0.1)--

Dưới 501

(0.1)

501-1.000

(0,5)

Chú thích

Lưu ý: Trong suốt bài viết này, dữ liệu được thu thập riêng biệt bởi Đông và Tây Đức.

Yêu cầu in lại: Korbin Liu, Sc.D., Viện đô thị, đường 2100 m, Tây Bắc, Washington, DC. 20037.

1 không được McCormick (1988), cân nặng khi sinh thấp có thể là kết quả của một trong hai quá trình, độc lập hoặc kết hợp: thời gian mang thai rút ngắn, hoặc tăng trưởng ít hơn so với dự đoán trong thời gian mang thai nhất định. Mặc dù cả cân nặng khi sinh và tuổi thai đều liên quan đến tỷ lệ tử vong, cân nặng khi sinh có xu hướng được đo chính xác hơn và do đó, trở thành biện pháp được sử dụng thường xuyên nhất trong dữ liệu từ Hoa Kỳ.

Các phân tích khác nhau, trong đó kiểm tra mối liên quan giữa tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và chi phí y tế, về chi tiêu sức khỏe bình quân đầu người và chi tiêu sức khỏe cho tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đã tìm thấy một mối quan hệ mạnh mẽ hơn, mặc dù Hoa Kỳ vẫn là một ngoại lệ trong những trường hợp này (Schieber , Poullier, và Greenwald, 1991).

3 Quy trình tiêu chuẩn hóa cho chiến lược mô phỏng này được mô tả chi tiết hơn trong ghi chú kỹ thuật.

Tỷ lệ 4 này được tính là sự khác biệt giữa thực tế và dự kiến ​​(dựa trên phân phối cân nặng khi sinh của quốc gia X) Tỷ lệ IMR của Hoa Kỳ, chia cho sự khác biệt giữa IMR thực tế của Hoa Kỳ và IMR thực tế của quốc gia X.

Người giới thiệu

  • Davis K, Schoen C. Sức khỏe và Cuộc chiến chống đói nghèo: Đánh giá mười năm. Washington DC .: Viện Brookings; 1978. [Học giả Google]Health and the War on Poverty: A Ten-Year Appraisal. Washington DC.: The Brookings Institution; 1978. [Google Scholar]
  • Câu đố về tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh của Eberstadt N. American. Lợi ích công cộng. 1991 mùa thu; 105: 30 trận123. [Học giả Google]The Public Interest. 1991 Fall;105:30–123. [Google Scholar]
  • Evans S, Alberman E. Nỗ lực hợp tác quốc tế (ICE) về cân nặng khi sinh; Đa số; và tỷ lệ tử vong ở chu sinh và trẻ sơ sinh: So sánh giữa các phân phối cân nặng sinh nở ở các quốc gia thành viên từ năm 1970 đến 1984. Acta Obstet Gynecol Scand. 1989; 68: 11 trận17. [PubMed] [Học giả Google]Acta Obstet Gynecol Scand. 1989;68:11–17. [PubMed] [Google Scholar]
  • Friede A, Baldwin W, Rhodes PH, et al. Tuổi của mẹ trẻ và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh: Vai trò của cân nặng khi sinh thấp. Báo cáo sức khỏe cộng đồng. 1987; 102 (2): 192 Từ199. [Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]Public Health Reports. 1987;102(2):192–199. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Geronimus tại. Về sinh con tuổi teen và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ. Đánh giá dân số và phát triển. 1987; 13 (2): 245 Vang279. [Học giả Google]Population and Development Review. 1987;13(2):245–279. [Google Scholar]
  • Guyer G, Wallach LA, Rosen SL. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh được tiêu chuẩn hóa và phòng ngừa cân nặng khi sinh thấp: Massachusetts so sánh với Thụy Điển như thế nào? Tạp chí Y học New England. 1982; 306: 1230 Từ1233. [PubMed] [Học giả Google]New England Journal of Medicine. 1982;306:1230–1233. [PubMed] [Google Scholar]
  • Hartford ra. Quan điểm mới về tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ: Phát hiện từ nghiên cứu quốc tế. Trình bày tại Hiệp hội Khoa học Xã hội trong Hội nghị Sức khỏe tại Viện Y tế Quốc gia; Bethesda, MD .. ngày 4 tháng 2 năm 1992. [Học giả Google][Google Scholar]
  • Haub C, Yanagishita M. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh: Ai là số một? Dân số ngày nay. 1991; 19 (3): 6 trận8. [PubMed] [Học giả Google]Population Today. 1991;19(3):6–8. [PubMed] [Google Scholar]
  • Hoffman HJ, Bergsjol P, Denman DW. Kỷ yếu của nỗ lực hợp tác quốc tế về tỷ lệ tử vong chu sinh và trẻ sơ sinh 2. Trung tâm thống kê y tế quốc gia; Hyattsville, Md .: Tháng 3 năm 1990. Xu hướng về tỷ lệ tử vong chu sinh cân bằng cân nặng cụ thể: 1970-1983. [Học giả Google]Proceedings of the International Collaborative Effort on Perinatal and Infant Mortality 2. National Center for Health Statistics; Hyattsville, MD.: Mar. 1990. Trends in birth weight specific perinatal mortality rates: 1970-1983. [Google Scholar]
  • Hogue CJ, Buehler JW, Strauss LT, Smith JC. Tổng quan về dự án giám sát tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh quốc gia (NIMS) Thiết kế, phương pháp, kết quả. Báo cáo sức khỏe cộng đồng. 1987; 102 (2): 126 Từ138. [Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]Public Health Reports. 1987;102(2):126–138. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Howell em. Sự thiên vị về tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh quốc tế do sự khác biệt báo cáo. Báo cáo trình bày tại cuộc họp thường niên của Hiệp hội Y tế Công cộng Hoa Kỳ; Atlanta, GA .. ngày 13 tháng 11 năm 1991. [Học giả Google][Google Scholar]
  • Viện Y học. Chăm sóc trước khi sinh: Tiếp cận các bà mẹ, đến trẻ sơ sinh. Washington: Nhà xuất bản Học viện Quốc gia; 1988. [Học giả Google]Prenatal Care: Reaching Mothers, Reaching Infants. Washington: National Academy Press; 1988. [Google Scholar]
  • Viện Y học. Ngăn ngừa cân nặng sinh con thấp. Washington: Nhà xuất bản Học viện Quốc gia; 1985. [Học giả Google]Preventing Low Birthweight. Washington: National Academy Press; 1985. [Google Scholar]
  • Jones EF, Forrest JD, Goldman N, et al. Mang thai ở tuổi vị thành niên ở các nước công nghiệp. New Haven, Ct .: Nhà xuất bản Đại học Yale; 1986. [Học giả Google]Teenage Pregnancy in Industrialized Countries. New Haven, CT.: Yale University Press; 1986. [Google Scholar]
  • Kahn AJ, Kammerman SB. Hỗ trợ trẻ em: Từ người thu nợ đến chính sách xã hội. Công viên Newbury, Ca .: Sage Press; 1988. [Học giả Google]Child Support: From Debt Collectors to Social Policy. Newbury Park, CA.: Sage Press; 1988. [Google Scholar]
  • Kleinman JC, Madans JH. Những ảnh hưởng của hút thuốc của mẹ, tầm vóc thể chất và trình độ học vấn đối với tỷ lệ mắc bệnh khi sinh thấp. Tạp chí Dịch tễ học Hoa Kỳ. 1985; 121 (6): 843 Từ855. [PubMed] [Học giả Google]American Journal of Epidemiology. 1985;121(6):843–855. [PubMed] [Google Scholar]
  • Kramer MS. Nguyên nhân và phòng ngừa sinh con thấp: Kiến thức và ưu tiên hiện tại cho nghiên cứu trong tương lai. Thủ tục tố tụng từ những tiến bộ trong việc ngăn ngừa cân nặng sinh thấp: Hội nghị chuyên đề quốc tế; Washington. 1988. [Học giả Google][Google Scholar]
  • Levin bw. Quan điểm quốc tế về lựa chọn điều trị trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh. Khoa học xã hội và y học. 1990; 30 (8): 901 Từ912. [PubMed] [Học giả Google]Social Science and Medicine. 1990;30(8):901–912. [PubMed] [Google Scholar]
  • Madans JH, Kleinman JC, Machlin SR. Sự khác biệt giữa các bệnh viện như là một nguồn tử vong ở trẻ sơ sinh dư thừa ở Quận Columbia, 1970-78. Tạp chí Sức khỏe Cộng đồng. 1981; 7: 103 bóng117. [PubMed] [Học giả Google]Journal of Community Health. 1981;7:103–117. [PubMed] [Google Scholar]
  • McCormick M. Xu hướng tỷ lệ sinh con thấp ở Hoa Kỳ. Thủ tục tố tụng từ những tiến bộ trong việc ngăn ngừa cân nặng sinh thấp: Hội nghị chuyên đề quốc tế; Washington. 1988. [Học giả Google][Google Scholar]
  • Miller CA. Phụ lục B trong chăm sóc trước khi sinh: Tiếp cận các bà mẹ, đến trẻ sơ sinh. Washington: Nhà xuất bản Học viện Quốc gia; 1988. Tiếp cận chăm sóc trước khi sinh: Một quan điểm quốc tế. [Học giả Google]Appendix B in Prenatal Care: Reaching Mothers, Reaching Infants. Washington: National Academy Press; 1988. Prenatal Care Outreach: An International Perspective. [Google Scholar]
  • Trung tâm thống kê y tế quốc gia. Liên kết sinh ra và các tập tin tử vong ở trẻ sơ sinh. Hyattsville, Md .: 1985. Chưa được công bố. [Học giả Google]Linked Birth and Infant Death Files. Hyattsville, MD.: 1985. Unpublished. [Google Scholar]
  • Overpeck MD, Hoffman HJ, Prager K. Trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh thấp nhất và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh Hoa Kỳ: NCHS 1983 liên kết dữ liệu tử vong/trẻ sơ sinh. Tạp chí sức khỏe cộng đồng Mỹ. 1992; 82 (3): 441 Từ444. [Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]American Journal of Public Health. 1992;82(3):441–444. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Ủy ban đánh giá thanh toán bác sĩ. Báo cáo thường niên cho Quốc hội 1991. Washington: Văn phòng In ấn Chính phủ Hoa Kỳ; 1991. [Học giả Google]Annual Report to Congress 1991. Washington: U.S. Government Printing Office; 1991. [Google Scholar]
  • Pierce JP. So sánh quốc tế về xu hướng về tỷ lệ hút thuốc lá. Tạp chí sức khỏe cộng đồng Mỹ. 1989; 79 (2): 152 Từ157. [Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]American Journal of Public Health. 1989;79(2):152–157. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Rawlings JS, Weir Mr. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cụ thể về chủng tộc và xếp hạng trong dân số quân đội Hoa Kỳ. Tạp chí bệnh tật của trẻ em. 1991; 146 (3): 313 Từ316. [PubMed] [Học giả Google]American Journal of Diseases of Children. 1991;146(3):313–316. [PubMed] [Google Scholar]
  • Sappenfield WM, Buehler JW, Binkin NJ, et al. Sự khác biệt về tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và sau sinh theo chủng tộc, cân nặng khi sinh và tuổi thai. Báo cáo sức khỏe cộng đồng. 1987; 102 (2): 82 Từ192. [Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]Public Health Reports. 1987;102(2):82–192. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Schieber GJ, Poullier JP, Greenwald LM. Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở hai mươi bốn quốc gia. Các vấn đề sức khỏe. 1991 mùa thu; 10 (3): 22 trận38. [PubMed] [Học giả Google]Health Affairs. 1991 Fall;10(3):22–38. [PubMed] [Google Scholar]
  • Smeeding tm. Quan điểm quốc gia chéo về xu hướng nghèo đói ở trẻ em và hiệu quả của các chính sách của chính phủ trong việc ngăn chặn nghèo đói ở các gia đình có trẻ em trong những năm 1980: bằng chứng đầu tiên từ LIS. Đại học Syracuse; 1991. Bản thảo chưa được công bố. [Học giả Google]Cross national perspectives on trends in child poverty and the effectiveness of government policies in preventing poverty among families with children in the 1980s: The first evidence from LIS. Syracuse University; 1991. Unpublished manuscript. [Google Scholar]
  • Smeeding TM, Torrey BB, Rein M. Mô hình thu nhập và nghèo đói: Tình trạng kinh tế của trẻ em và người già ở tám quốc gia. Trong: Palmer JL, Smeeding TA, Torrey BB, biên tập viên. Người dễ bị tổn thương. Washington, DC .: Nhà xuất bản Viện đô thị; 1988. [Học giả Google]The Vulnerable. Washington, DC.: The Urban Institute Press; 1988. [Google Scholar]
  • Liên Hiệp Quốc. Cuốn sách năm nhân khẩu học. New York, NY .: 1984-87. [Học giả Google]Demographic Year Book. New York, NY.: 1984-87. [Google Scholar]
  • Văn phòng Ngân sách Quốc hội Hoa Kỳ. Các yếu tố góp phần vào bảng xếp hạng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh của Hoa Kỳ. Washington: 1992. Bản ghi nhớ nhân viên. [Học giả Google]Factors contributing to the infant mortality ranking of the United States. Washington: 1992. Staff memorandum. [Google Scholar]
  • Bộ Thương mại Hoa Kỳ. Tóm tắt thống kê của Hoa Kỳ: 1991. Washington: Văn phòng In ấn Chính phủ Hoa Kỳ; 1991. [Học giả Google]Statistical Abstract of the United States: 1991. Washington: U.S. Government Printing Office; 1991. [Google Scholar]
  • Hạ viện Hoa Kỳ, Way có nghĩa là Ủy ban. Tổng quan về các chương trình quyền lợi: Sách xanh 1991. Washington: Văn phòng In ấn Chính phủ Hoa Kỳ; 1991. [Học giả Google]Overview of Entitlement Programs: 1991 Green Book. Washington: U.S. Government Printing Office; 1991. [Google Scholar]
  • Wegman tôi. Tóm tắt hàng năm về số liệu thống kê quan trọng của năm 1990. Nhi khoa. 1991; 88 (6): 1081 Từ1092. [PubMed] [Học giả Google]Pediatrics. 1991;88(6):1081–1092. [PubMed] [Google Scholar]
  • Wilcox AJ, Russell nó. Tỷ lệ tử vong chu sinh: Tiêu chuẩn hóa cho cân nặng sinh là sai lệch. Tạp chí Dịch tễ học Hoa Kỳ. 1983; 118 (6): 857 Từ864. [PubMed] [Học giả Google]American Journal of Epidemiology. 1983;118(6):857–864. [PubMed] [Google Scholar]
  • PH WISE. Nghèo đói, công nghệ và xu hướng gần đây trong tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh Hoa Kỳ. Dịch tễ học nhi khoa và chu sinh. 1990; 4: 390 bóng401. [PubMed] [Học giả Google]Pediatric and Perinatal Epidemiology. 1990;4:390–401. [PubMed] [Google Scholar]


Các bài viết từ đánh giá tài chính chăm sóc sức khỏe được cung cấp ở đây lịch sự của Trung tâm dịch vụ Medicare và Trợ cấp y tếHealth Care Financing Review are provided here courtesy of Centers for Medicare and Medicaid Services


Quốc gia nào có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao nhất thế giới?

Châu Phi cận Sahara có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao nhất thế giới (27 trường hợp tử vong trên 1000 ca sinh sống) với 43% tử vong trẻ sơ sinh toàn cầu, tiếp theo là Trung và Nam Á (23 trường hợp tử vong trên 1000 sinh sống), với 36% tử vong trẻ sơ sinh toàn cầu. has the highest neonatal mortality rate in the world (27 deaths per 1000 live births) with 43% of global newborn deaths, followed by central and southern Asia (23 deaths per 1000 livebirths), with 36% of global newborn deaths.

Nước nào có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao nhất năm 2022?

Nó thường được thể hiện dưới dạng số ca tử vong ở trẻ sơ sinh trên 1.000 ca sinh sống ...
Somalia - 72,72 ..
Nigeria - 72,24 ..
Lesotho - 69,88 ..
Chad - 67,40 ..
Tiến sĩ Congo - 63,79 ..
Nam Sudan - 63,34 ..
Guinea - 61,99 ..
Mali - 58,77 ..

Quốc gia nào có tỷ lệ tử vong dưới 5 cao nhất?

Thống kê này cho thấy các quốc gia có tỷ lệ tử vong cao nhất ở trẻ em dưới năm tuổi vào năm 2020. ....

5 nguyên nhân hàng đầu của tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là gì?

Nguyên nhân gây tử vong ở trẻ sơ sinh và cân nặng khi sinh thấp.Hội chứng trẻ sơ sinh chết đột ngột.Chấn thương (ví dụ: nghẹt thở).Biến chứng mang thai của mẹ.Preterm birth and low birth weight. Sudden infant death syndrome. Injuries (e.g., suffocation). Maternal pregnancy complications.