Vận dụng học thuyết giá trị vào Việt Nam

Học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự vận dụng, sáng tạo trong bối cảnh mới

[LĐXH] - Nhằm triển khai thực hiện hiệu quả, kịp thời Đề tài cấp Nhà nước về “Nghiên cứu tổng kết học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác-Lênin và đề xuất bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới”, ngày 18/9 tại Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học “Học thuyết giá trị thăng dư của chủ nghĩa Mác-Lênin: Những giá trị cốt lõi, những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua, sự bổ sung, phát triển trong bối cảnh mới”. PGS.TS Đoàn Xuân Thủy, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm đề tài.

Tham dự và chủ trì Hội thảo, có PGS.TS Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; PGS.TS Ngô Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Kinh tế Chính trị học; PGS Đoàn Xuân Thủy, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Chính trị cùng các đại biểu là các nhà khoa học đến từ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Học viện Chính trị KV I, KV IV; Học viện Báo chí Tuyên truyền; Học viện Cảnh sát nhân dân; Trường Bách khoa Hà Nội; Sĩ quan đặc công cùng đại biểu các đơn vị trực thuộc.

Tại Hội thảo, PGS.TS Đoàn Xuân Thủy đã trình bày báo cáo tóm tắt về một số nội dung của học thuyết giá trị thặng dư. Sau gần 2 thế kỷ, C.Mác đã phát minh ra học thuyết giá trị thặng dư, nhờ đó tìm ra và nhận thức rõ quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi bất công xã hội, triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người. Sự bổ sung, vận dụng và phát triển học thuyết gái trị thặng dư của C.Mác vào điều kiện ở nước Nga đã giúp cho V.I.Lenin và Đảng Bôn-sê-vích cùng giai cấp công nhân Nga đã thực hiện thành công CMT10 năm 1917, mở ra kỷ nguyên, thời đại mới cho sự phát triển của nhân loại – thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo xu thế đó, Đảng Cộng sản Việt Nam [ĐCSVN] do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin, mà một trong những yếu tố cốt lõi trong đó là học thuyết giá trị thặng dư làm nền tảng tư tưởng ngay từ khi thành lập. Sự vận dụng sáng tạo học thuyết này đã góp phần đặc biệt quan trọng vào thành công lớn của cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong việc dành và giữ chính quyền.

PGS.TS Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện CTQGHCM phát biểu chủ trì hội thảo

Tuy nhiên, với nhận thức chủ yếu về  bản chất bóc lột của giá trị thặng dư với tư cách là phạm trù đặc thù riêng có của chủ nghĩa tư bản [CNTB], học thuyết này đã được nghiên cứu và vận dụng với tư cách là công cụ tư tưởng để chống lại và xóa bỏ CNTB, việc nghiên cứu để vận dụng và xây dựng chế độ kinh tế - xã hội mới đã không được chú trọng ở Liên xô, các nước XHCN Đông Âu và những bước phát triển mới của CNTB trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đã tạo cơ hội trỗi dậy của những tư tưởng chống đối, phản bác Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, trong đó có học thuyết gía trị thặng dư nói riêng. Tình hình đã và đang đặt ra vấn đề cho các dân tộc tiếp tục lựa chọn đi lên CNXH, trong đó có Việt Nam phải suy ngẫm, đổi mới tư duy phát triển. Do đó, việc coi chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có học thuyết gái trị thặng dư là một bộ phận cấu thành quan trọng đặc biệt trong nền tảng tư tưởng của Đảng CSVN cần phải được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển phù hợp với bối cảnh mới của đất nước và quốc tế.

Những biến động phức tạp, khó lường trong phát triển kinh tế thế giới như toàn cầu hóa, khu vực hóa, các công ty đa quốc gia, sự thay đổi của các yếu tố địa chính trị, địa kinh tế và đặc biệt là cuộc CMCN 4.0 với sự phát triển của công nghệ số, công nghệ sinh học, thực tế ảo…; sự thay thế của máy móc tự động và trí tuệ nhân tạo cho lao động sống của con người; vai trò của những nhân tố chủ yếu trong sản xuất của xã hội công nghiệp như đất đai, lao động, nguyên liệu, vốn… đang có xu hướng dần suy giảm, tri thức đã và đang trở thành yếu tố quyết định nhất trong nền sản xuất hiện đại. Nhiều yếu tố mới đã xuất hiện trong phân phối thu nhập biểu hiện thông qua sự hình thành và phát triển của tầng lớp trung lưu bao gồm bộ phận công chức, người lao động có tay nghề cao có mức sống khá, một bộ phận công nhân có cổ phần, cổ đông trong các công ty trở thành nhà đầu tư thông qua mua cổ phiếu, trái phiếu, phiếu tiết kiệm và thu được lợi tức cổ phần, lợi tức trái phiếu và lãi suất tiền gửi… tại các nước tư bản phát triển. Nhiều nước tư bản phát triển đã đạt được trình độ cao về phúc lợi xã hội… đã và đang đặt ra câu hỏi, phải chăng đó là những điều kiện biểu hiện mới của sản xuất và phân phối giá trị thặng dư?

Trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, đã có không ít ý kiến cho rằng những giá trị cốt lõi trong học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác – Lênin cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng CNXH  như vai trò của yếu tố chủ quan trong quá trình sản xuất hiện đại, vai trò của lao động khoa học công nghệ đứng bên cạnh để điều tiết và kiểm soát quá trình sản xuất, vai trò của sự dẫn đầu trong việc thu lợi nhuận siêu ngạch, các phương pháp sản xuất và hình thức phân phối gía trị thặng dư trong nền kinh tế TBCN hiện đại.

GS.TS Chu Văn Cấp, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Chính trị đóng góp ý kiến xoay quanh học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác - Lênin

Tuy nhiên, đến nay, nhiều vấn đề lớn về thực tiễn, căn cốt xuất hiện những chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng về lý thuyết. Sự bị động, tụt hậu về lý luận dưới ảnh hưởng rất lớn của tư duy giáo điều và phương pháp tiếp cận cũ đang kìm hãm sự phát triển KT – XH của đất nước. Về bản chất vẫn chưa có sự nghiên cứu bài bản trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, lộ trình, bước đi của CNXH; về mô hình phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm; về kinh tế thị trường định hướng XHCN và thực hiện hiệu quả quá trình CNH, HĐH đất nước, vừa tạo cơ hội phục hồi, phát triển chủ nghĩa hoài nghi. Việc chưa xác định rõ các quy luật của nền KTTT định hướng XHCN và mối quan hệ giữa chúng đang gây khó khăn trong việc xây dựng tầm nhìn, hoạch đinh chiến lược phát triển dài hạn, xác định vai trò cụ thể của Nhà nước trong nền KTTT. Đến nay vẫn chưa phân định rõ chức năng Nhà nước – thị trường cho nên Nhà nước vẫn đang làm thay, thực hiện nhiều chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn. Chính sách phân phối còn nhiều bất hợp lý chưa thực sự khơi dậy và phát huy được hiệu quả các động lực để phát triển kinh tế, đồng thời làm cho khoảng cách giàu nghèo của các tầng lớp dân cư, vùng miền, ngành nghề… ngày càng dãn rộng.

Cùng với đó, những vấn đề liên quan đến sở hữu, quản lý và sử dụng tư liệu sản xuất chủ yếu như đất đai chưa được giải quyết hợp lý do thiếu cơ sở khoa học nền tảng dẫn đến tình trạng khiếu kiện về đất đai ở tất cả các cấp hết sức phức tạp. Vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và phát huy vai trò động lực quan trọng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN… mới chỉ dừng lại ở mức chủ trương…

Những thách thức nảy sinh từ thực tiễn cùng với xu thế phát triển mới của thời đại tạo ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ những giá trị cốt lõi, khoa học, chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết giá trị thặng dư, những luận điểm có giá trị lịch sử không còn phù hợp với bối cảnh mới, những dung cần bổ sung, phát triển và vận dụng vào phát triển KT – XH trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, thù địch, tạo cơ sở khoa học thực sự cho việc bảo vệ, bổ sung phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận các vấn đề liên quan đến giá trị cốt lõi phản ánh bản chất khoa học và cách mạng của  học thuyết gía trị thặng dư; những luận điểm trong học thuyết giá trị thặng dư đã bị lịch sử vượt qua; những luận điểm trong học thuyết cần được bổ sung, phát triển phù hợp với bối cảnh hiện nay; những quan điểm phản bác; định hướng nghiên cứu và vận dụng sáng tạo học thuyết vào thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới./.

Hà Giang

PHẦN MỞ ĐẦU Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của C.Mác. Trong học thuyết này C.Mác nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người thông qua quan hệ giữa vật với vật. Cơ sở về kinh tế để xác lập mối quan hệ đó chính là lao động, cái thực thể, yếu tố cấu thành giá trị của hàng hóa. Đó chính là trọng tâm của học thuyết giá trị. Thực sự sản xuất hàng hóa gắn liền với các phạm trù: giá trị, hàng hóa, tiền tệ đã từng có trước chủ nghĩa tư bản. Nó là những điều kiện để cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển. Nghiên cứu học thuyết giá trị của C.Mác là ta đã bắt đầu nghiên cứu về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa là một quá trình hoạt động quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới. Sản xuất hàng hóa tồn tại và phát triển dưới CNXH vì dưới CNXH còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau và trình độ phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. Sản xuất hàng hóa làm cho quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các vùng và mối quan hệ giữa con người với con người ngày càng phát triển. Nó là điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần người lao động. Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nó có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, đồng thời kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Nó còn thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa giầu nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa. Do các tác động trên mà quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa là một quy luật vô cùng quan trọng và không thể thiếu được.Do tầm quan trọng của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa cùng với những tác động của nó trên nền kinh tế hàng hóa, VN cần phải thực hiện các phương án, các chính sách nhằm vận dụng tốt quy luật giá trị vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.1 Với những hiểu biết còn hạn chế của em về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay ở VN cũng như vốn kiến thức về môn Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, em xin viết bài tiểu luận này với mong muốn vận dụng vốn hiểu biết của mình để tìm hiểu về “Học thuyết giá trị và ý nghĩa vận dụng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.2Chương 1: Khái quát lý luận về quy luật giá trị I. Yêu cầu và nội dung của quy luật giá trị :1. Yêu cầu của quy luật giá trị: Việc sản xuất và trao đổi hàng hóa trên thị trường phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Cụ thể là: - Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì trong nền sản xuất hàng hóa, vấn đề dặc biệt quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không. Để có thể bán được thì hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa của các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với mức hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận được. Mức hao phí càng thấp thì họ càng có khả năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận. Ngược lại sẽ bị thua lỗ, phá sản…- Trong trao đổi hàng hóa cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá: hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có lượng giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau. Yêu cầu trên của quy luật là khách quan, đảm bảo sự công bằng, hợp lý, bình đẳng giữa những người sản xuất hàng hóa. 2. Nội dung của quy luật giá trị: Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị hàng hóa không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được. Trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá 3cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. II. Vai trò, tác dụng, ý nghĩa của quy luật giá trị:1. Vai trò, tác dụng của quy luật giá trị:Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau: Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa . Điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là điều chỉnh tự phát các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Nó làm cho sản xuất hàng hóa của ngành này, nơi này được phát triển mở rộng ; ngành khác, nơi khác bị thu hẹp thông qua sự biến động của giá cả thị trường. Từ đó tạo ra ngững tỷ lệ cân đối tạm thời giữa các ngành, các vùng của một nền kinh tế hàng hóa nhất định. Tác động này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu :- Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hóa. Trường hợp này xảy ra 1 cách ngẫu nhiên và rất hiếm.- Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị hàng hóa. Khi đó, hàng hóa bán chạy, lãi cao, những người sản xuất những loại hàng hóa này sẽ mở rộng quy mô sản xuất và tăng cường sản xuất. Bên cạnh đó, những người đang sản xuất hàng hóa khác cũng thu hẹp quy mô sản xuất của mình để chuyển sang sản xuất loại hàng hóa này . Như vậy tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành này tăng lên, lượng cung về loại mặt hàng này trên thị trường cũng tăng lên.4- Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị hàng hóa. Khi đó, hàng hóa dư thừa, bán không chạy, có thể lỗ vốn. Tình hình này bắt buộc những người đang sản xuất loại hàng hóa này phải thu hẹp quy mô sản xuất, chuyển sang sản xuất loại hàng hóa có giá cả thị trường cao hơn ; làm cho tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn ở ngành sản xuất hàng hóa này giảm đi.Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nên kinh tế hàng hóa. “… Khi thực hiện quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa trong xã hội gồm những người sản xuất, trao đổi hàng hóa cho nhau, sự cạnh tranh lập ra bằng cách đó và trong điều kiện nào đó, một trật tự duy nhất và một tổ chức duy nhất có thể có của nền sản xuất xã hội. Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng mà những người sản xuất hàng hóa riêng lẻ biết được rõ ràng là xã hội cần vật phẩm nào và với số lương bao nhiêu” [C.Mác – Sự khốn cùng của triết học- NXB Sự thật] Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển Để tránh bị phá sản, giành được ưu thế trong cạnh tranh, tránh nguy cơ vỡ nợ và thu hút được nhiều lãi, từng người sản xuất hàng hóa đều phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình , sao cho bằng hao phí lao động cần thiết. Muốn vậy, họ phải tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sx, ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật mới vàosản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ để giảm hao phí lao động và tăng năng suất lao động. Kết quả là lực lượng sản xuất XH được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành người giàu, người nghèo Những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kĩ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.5 2.Ý nghĩa của quy luật giá trị: Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn :- Một mặt quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển.- Mặt khác phân hóa xã hội thành kẻ giàu ng nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xh.III. Biểu hiện của quy luật giá trị trong chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.- Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất.- Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. - Tiền để của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị hàng hoá chuyển hóa thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất; quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác. - Trong sản xuất hàng hóa giản đơn thì giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị hàng hóa. Giờ đây giá cả hàng hóa sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị hàng hóa. Giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất. Như vậy, trong giai đoạn cạnh tranh tự do của CNTB, khi giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất thì quy luật giá trị cũng biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.IV. Biểu hiện của quy luật giá trị trong CNTB độc quyền.- Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của CNTB sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của CNTB, mà chỉ là sự tiếp xúc mở rộng, phát triển những xu 6thế sâu sắc nhất của CNTB và của nền sản xuất hàng hóa nói chung, làm cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa và của CNTB có những biểu hiện mới.- Do chiếm được v.trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn CNTB độc quyền quy luật giá trị không còn hoạt động. Về thực chất giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống TBCN thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số g.trị. Như vậy, nếu như trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả săn xuất, thì trong giai đoạn CNTB độc quyền quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.Chương 2: Sự vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế - xã hội Việt NamI. Giai đoạn trước đổi mới 1986:1. Cơ chế quản lý kinh tế trước đổi mới:- Trước đổi mới cơ chế kinh tế nước ta thực hiện theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp.- Biểu hiện của cơ chế kế họach hóa tập trung quan liêu:+ Quan liêu: là cách chỉ đạo, ra lệnh mang tính văn bản.+ Nhà Nước [NN] quản lý nền kinh tế bằng áp đặt pháp lệnh từ trên xuống. NN giao chỉ tiêu, kế hoạch, vốn… cho doanh nghiệp, lãi hay lỗ trong kinh doanh đều do nhà nước chịu. 7+ NN can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp nhưng không chịu trách nhiệm về vật chất và pháp lý, các doanh nghiệp không có quyền tự chủ và cũng không bị ràng buộc bởi kết quả kinh doanh.+ Quy luật giá trị, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị vi phạm, chủ yếu là chế độ cấp phát, giao nộp. Sức lao động, phát minh, sáng chế không được coi là hàng hóa.+Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều trung gian, cửa quyền, quan liêu.- Biểu hiện của cơ chế bao cấp:+ Bao cấp qua giá: NN quyết định giá trị tài sản, vật tư, thiết bị, hàng hóa thấp hơn nhiều so với giá trị thị trường, do đó hạch toán kinh tế chỉ mang tính hình thức.+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu: NN phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ công nhân viên theo tem phiếu.+ Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn: làm tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước, sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế xin - cho.2. Hạn chế, ưu điểm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp: Cho phép tận dụng tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong các giai đoạn cụ thể.a. Hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp :- Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ.- Thủ tiêu động lực của người lao động, giảm tính năng động sáng tạo. - Kinh tế phát triển theo chiều rộng, không đi vào chiều sâu dẫn đến khủng hoảng trì trệ.b. Thành tựu của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp: Mô hình kinh tế trên đã phát huy tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa theo kiểu cổ điển; tập trung được các nguồn lực đáp ứng được nhu cầu của cuộc kháng chiến.c. Hậu quả của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp: - Do kém hiệu quả, thiếu năng động do thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung và chế độ phân phối bình quân chủ nghĩa nên nền kinh tế trên không còn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội.- Nền kinh tế trì trệ rồi dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài; sản xuất phát triển chậm, kém hiệu quả và bấp bênh; tình trạng khan hiếm, thiếu cả 8hàng hóa thiết yếu; lạm phát phi mã [774,7% năm 1987]; đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn. Đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế lạc hậu và phát triển kinh tế trở thành đòi hỏi bức thiết và tất yếu của Việt Nam.d. Nguyên nhân của những hạn chế:- Do bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội; không tôn trọng quy luật kinh tế khách quan.- Do xem nhẹ yếu tố thị trường trong quản lý kinh tế.- Chỉ chú trọng phân bố nguồn lực theo kế hoạch.- Nhận thức về CNXH không đúng với thực tiễn Việt Nam.- Do tâm lý nôn nóng muốn có CNXH chỉ coi trọng kinh tế tập thể nhà nước, muốn thủ tiêu kinh tế cá thể, tư nhân. Trước tình hình sản xuất đình trệ, khủng hoảng, Đảng ta đã có nhiều bước cải tiến kinh tế theo hướng thị trường, bước đầu của quá trình thay đổi là thực hiện khoán sản phẩm nông nghiệp, bù giá vào lương nhưng chưa được thực hiện toàn diện cụ thể. Từ thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được sự không phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế hành chính, bao cấp nên cần phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế . Sau Hội nghị Trung ương sáu [khoá IV] năm 1979, nhiều nghị quyết của Trung ương, nhiều quyết định của Đảng và Nhà nước về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được ban hành, đặc biệt là Nghị quyết Tám của Trung ương [khoá V] và Nghị quyết 306 của Bộ Chính trị.II. Quan điểm đổi mới của Đảng về điều tiết nền kinh tế từ 1986 1.Khái niệm nền kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế phát triển cao của kinh tế hàng hoá mà mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều được thực hiện qua thị trường2.Tính tất yếu của sự tồn tại nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam:9 Kinh tế hàng hoá không phải là một hình thái kinh tế xã hội riêng biệt trong lịch sử, mà kinh tế hàng hoá là phương thức phát triển kinh tế chung của loài người của nhiều phương thức sản xuất là một bước tiến của lịch sử. Ngày nay nhân loại chưa biết đến phương thức kinh tế nào tiến bộ hơn kinh tế hàng hoá. Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế xã hội đều phải phát triển kinh tế hàng hoá.3.Quan điểm xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường:a. Quan điểm xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa:Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới của Đảng ta. Tại đại hội này, lần đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra quan điểm “phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội”, coi đây là vấn đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội". b. Quan điểm xây dựng & phát triển kinh tế thị trường- Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Công cuộc đổi mới này đã được toàn dân ủng hộ và thu được những thành tựu quan trọng mà cả thế giới đều công nhận. Sự hình thành tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình tìm tòi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện. - Đến Đại hội VII, Đảng đã khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". - Tới Đại hội Đảng VIII và Đại hội IX, Đảng khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩalà mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xhcn, các yếu tố tuân theo thị trường 10là cung-cầu, giá cả, sự phát triển của lực lượng sx, khoa học- kĩ thuật . Nhà nước quản lý quan hệ sản xuất bao gồm sở hữu, quản lý và phân phối sản phẩm. Kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải là kinh tế kế hoạch hóa tập trung, không phải là kinh tế thị trường TBCN, cũng không phải là KTTT XHCN .- Tại Đại Hội X: làm rõ hơn tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta.+ Về mục đích: phát triển kinh tế gắn với phát triển xã hội, nâng cao đời sống, đảm bảo dân chủ, công bằng, văn minh.+ Về phương hướng: phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của cá nhân, vùng miền trong đó kinh tế nhà nước đóng vao trò chủ đạo.+ Bổ sung thêm quan điểm về định hướng xã hội là phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, vì mục tiêu phát triển con người và phân phối theo lao động.+Về quản lý: Nhà nước giữ vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế để hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của KTTT4. Quá trình vận dụng quy luật giá trị để phát triển nền kinh tế hàng hóa • Với Nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, bằng các công cụ điều tiết như chính sách thuế, chính sách quản lý thị trường, quản lý sản xuất , lưu thông và giá cả thị trường trên cơ sở giá trị, các chính sách thu hút đầu tư… Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng, hữu cơ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Khu vực kinh tế nhà nước, cùng với nhà nước có chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước thay mặt nhân dân nắm giữ những doanh nghiệp chủ chốt trong hệ thống kinh tế quốc dân. Đó cũng là 11những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không làm được hoặc không hiệu quả.• Với Doanh nghiệp: Việc vận dụng quy luật giá trị giúp cho các doanh nghiệp có thể tự chủ hạch toán giá thành, giá cả, lợi nhuận trên cơ sở giá trị. Từ đó chủ động phát triển nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trương theo định hướng XHCN • Với Xã hội: Vận dụng quy luật giá trị để phát triển nền kinh tế hàng hóa góp phần thúc đẩy thị trường tiêu dùng, kích cầu …Thành tựu đóng góp cho kinh tế - xã hội và hạn chế tồn tại • Về một số Thành tựu đã đạt được, Việt Nam đã tích luỹ được một số tiền đề, điều kiện cho sự phát triển ở trình độ mới. Cụ thể: - Thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài [FDI] và tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức [ODA] ngày càng lớn.- Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và đối tác thương mại. - Tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý. Nhiều ngành kinh tế mới xuất hiện dựa trên cơ sở tăng cao hàm lượng chất xám trong sản xuất - kinh doanh. Đưa doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam vào môi trường cạnh tranh. - Tăng trưởng cao GDP. Bình quân tăng trưởng thời kỳ 1986-1990 là 4,4%/năm, thời kỳ 1991-1995 là 8,2% /năm, thời kỳ 1996-2000 là 7%/năm, thời kỳ 2001-2005 là 7,52%/năm, năm 2008 đạt 6,23%, năm 2009 đạt 5,2% và nếu năm 2010 tăng trưởng đạt 6,5% thì bình quân thời kỳ 2006-2010 sẽ đạt 6,96%/năm và tính chung thời kỳ 2001-2010 đạt 7,24%/năm. Như vậy liên tục trong 25 năm, tốc độ tăng trưởng luôn đạt mức cao nên GDP/người/năm cũng tăng, từ 289 USD [năm 1995] lên đến 1.024 USD [năm 2008], cho thấy Việt Nam đã thoát được phạm vi nước nghèo, đang bước vào phạm vi nước có thu nhập trung bình thấp [có GDP/ người từ 765 đến 3.385 USD]12- Việt Nam đẩy mạnh hơn quá trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là những cải cách về phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước, tham gia ngày càng nhiều vào phân công lao động quốc tế và mở rộng quá trình dân chủ hoá xã hội.Bên cạnh một số thành tựu như vậy, Việt Nam cũng đã gặt hái được một số thành tựu có ý nghĩa to lớn. Nổi bật hơn cả là có sự đồng thuận cao hơn về nhu cầu hội nhập; luật pháp, thể chế được hoàn thiện hơn, góp phần gia tăng niềm tin của các doanh nghiệp trong và ngoài nước; vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng cao và Việt Nam càng nhận thức rõ hơn những điểm mạnh, yếu của nền kinh tế nước nhà.• Về một số hạn chế còn tồn tại:- Mặc dù có tốc độ phát triển kinh tế cao trong một thời gian dài nhưng chất lượng tăng trưởng thấp.- Tình trạng tham nhũng chậm được cải thiện và luôn ở mức cao- Các khó khăn về vốn, đào tạo lao động, đất đai, cải cách hành chính, cơ sở hạ tầng gây ra cho việc kinh doanh với hàng chục ngàn thủ tục từ 20-25 năm trước.- Con số cam kết đầu tư trực tiếp của nước ngoài cao nhưng Việt Nam đang bị các nước trong khu vực bỏ lại khá xa. Theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của WB thì Việt Nam đang tụt hậu về kinh tế tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore. Môi trường ngày càng ô nhiễm nặng và căn bệnh coi nhẹ nông nghiệp, bỏ mặc nông dân với cơ chế thị trường v.v không những đang hạn chế đà phát triển, mà còn làm cho sự phát triển của Việt Nam thiếu tính bền vững. Từ thực trạng những thành tựu và hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong 25 năm đổi mới, cần vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội trong gia đoạn tiếp theo.Chương III: Phương hướng hoàn thiện sự vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam.131. Khuyến nghị về các chính sách vĩ mô của Nhà nước • Phải đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế từ diện rộng sang sâu, lấy hiệu quả là chủ yếu; phải cơ cấu lại nền kinh tế, phải có công nghiệp chế biến và nâng chất các dịch vụ ngân hàng, tài chính, du lịch.• Nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới .• Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.2. Khuyến nghị với các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế:- Nâng cao sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập, tham gia tổ chức thương mại quốc tế WTO. Trong đó cần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Muốn nâng cao sức cạnh tranh cần phải nghiên cứu, vận động và triển khai khoa học công nghệ [KHCN]. Bởi vậy, việc vận dụng KHCN làm giảm chi phí, tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh. Mặt khác kích thích việc nghiên cứu KHCN bằng nhiều cách khác nhau. - Các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế cần tự chủ hạch toán giá thành, giá cả, lợi nhuận trên cơ sở giá trị.3. Khuyến nghị với xã hội:• Người lao động cần tăng cường học tập, nâng cao trình độ, tay nghề của mình để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế. Đồng thời cần tìm hiểu, tích cực sáng 14tạo các công nghệ, khoa học, kỹ thuật tiên tiến để áp dụng vào quá trình lao động, sản xuất làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.• Bên cạnh đó người lao động và công chúng cần hiểu và nắm vững quy luật giá trị để áp dụng quy luật vào tình hình thực tế của thị trường. KẾT LUẬN Như vậy học thuyết trị là một học thuyết kinh tế quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nền kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là một quy luật kinh tế căn bản của ản xuất và trao đổi hàng hóa. Nó có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, đồng thời kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh và thực hiện sự lựa chọn tự nhiên, phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu, người nghèo. Thực tiên chứng tỏ rằng quy luật giá trị với những biểu hiện của nó như giá cả, tiền tệ, giá trị hàng hóa là lĩnh vực tác động rất lớn tới đời sống kinh tế - xã hội. Đối với nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH vẫn còn mang nặng tính nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật còn phụ thuộc các nước khác, tuy nhiên Đảng và Nhà nước đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng trong việc đổi mới xã hội cũng như hiểu rõ vai trò và tác dụng của quy luật giá trị, từ đó mà thực hiện nhiều cuộc cải cách kinh tế… tuân theo những nội dung của quy luật giá trị nhằm hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể.15MỤC LỤC TrangPhần mở đầu 1Chương 1: Khái quát lý luận về quy luật Giá trị 3I. Yêu cầy và nội dung của quy luật giá trị 31. Yêu cầu của quy luật giá trị 32. Nội dung của quy luật giá trị 3II.Vai trò, tác dụng, ý nghĩa của quy luật giá trị 41. Vai trò, tác dụng của quy luật giá trị 42.Ý nghĩa của quy luật giá trị 6III. Biểu hiện của quy luật giá trị trong chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh 6 IV.Biểu hiện của quy luật giá trị trong CNTB độc quyền 7Chương 2: Sự vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế - xã hội Việt Nam 8I. Giai đoạn trước đổi mới 1986 81. Cơ chế quản lý kinh tế trước đổi mới 8162. Hạn chế, ưu điểm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp 8II.Quan điểm đổi mới của Đảng về điều tiết nền kinh tế từ 1986 101. Khái niệm nền kinh tế thị trường 102. Tính tất yếu của sự tồn tại nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam 10 3. Quan điểm xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường 104 .Quá trình vận dụng quy luật giá trị để phát triển nền kinh tế hàng hóa 12 Chương III: Phương hướng hoàn thiện sự vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam 141. Khuyến nghị về các chính sách vĩ mô của Nhà nước 142. Khuyến nghị với các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế 153. Khuyến nghị với xã hội 15 Kết luận 1617Danh mục tài liệu tham khảo1.Internet2.Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin3.Giáo trình triết học Mac – Lênin4.Cơ chế thị trường và vai trò Nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam – NXB thống kê.18

Video liên quan

Chủ Đề