Vận dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập vào quá trình học tập

Tài liệu "Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan đến công việc của anh chị" có mã là 211236, file định dạng pdf, có 7 trang, dung lượng file 104 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Khoa học xã hội > Triết học. Tài liệu thuộc loại Đồng

Nội dung Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan đến công việc của anh chị

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan đến công việc của anh chị để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 7 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập để phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan đến công việc của anh chị

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập [hay gọi là quy luật mâu thuẫn] là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và biện chứng duy vật lịch sử khẳng định rằng: mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên đều tồn tại và mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật có rất nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành…

Ngay từ thời cổ đại đã có những pháng đoán thiên tài về sự tác động qua lại của các mặt đối lập và xem xét sự tác động đó là cơ sở vận động của thế giới. Nhiều đại biểu triết học cổ đại Phương Đông đã xem vận động do sự hình thành những đối lập và các đối lập ấy luôn luôn vận động. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêracơlit- người được Lênin coi là ông tổ của phép biện chứng cho rằng trong sự vận động biện chứng vĩnh viễn của mình, các sự vật đều có xu hướng chuyển sang các mặt đối lập… Tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển của phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, tiêu biểu là I. Cantơ và G. V. Hêghen.

Các antinômi của Cantơ xuất hiện trên cơ sở vượt quá trình độ nhận thức có tính chất kinh nghiệm khi Cantơ xem các mặt đối lập la những đối lập về chất. Song không giải quyết được vấn đề Các antinômi, Cantơ đã đi tới từ bỏ việc thừa nhận các mâu thuẫn khách quan. Ông xem sự tồn tại của mâu thuẫn là bằng chứng nói lên tính bất lực của con người trong việc nhận thức thế giới.

Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động và phát triển của “ý niệm tuyệt đối “, Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất [quan điểm này cho rằng đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt về mâu thuẫn]. Theo ông, đó là sự đồng nhất trừu tượng trống rỗng, không bao hàm một nhân tố chân lí nào. Ông quan niệm bất kì sự đồng nhất nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn. Ông là người sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động và phát triển:”Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt động. Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó. Song do bị chi phối bởi quan niệm duy tâm và lợi ích giai cấp Hêghen đã đẩy việc giải quyết mâu thuẫn không thể điều hoà được trong “xã hội công dân” vào lĩnh vực tư tưởng thuần tuý.

Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu tư tưởng về mâu thuẫn, bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã cho rằng chúng ta phải tìm xung lực vận động và sự phát triển của sự vật trong chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý luận đó được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Quy luật mâu thuẫn – đây là hạt nhân của phép biện chứng.

Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong hiện thực.

Ví dụ về mặt đối lập: Trong một nguyên tử có điện tích âm >< điện tích dương; trong cơ thể sống có quá trình đồng hóa >< dị hóa; trong xã hội có giai cấp: g/c thống trị >< g/c bị trị; tư tưởng con người: đổi mới >< bảo thủ. Các mặt đối lập này phải có liên hệ với nhau, nếu tách rời nhau thì chúng không còn là mặt đối lập [xét trong một chỉnh thể].

Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là tính quy định ràng buộc lẫn nhau, nương tựa vào nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau giữa các mặt đối lập. Dó đó nếu không có mặt đối lập này thì cũng sẽ không có mặt đối lập kia và ngược lại. Sự thống nhất này còn nói lên sự đồng nhất giữa chúng: có nghĩa là giữa chúng có điểm giống nhau, nên khi biến đổi thì chúng có thể hóa vào nhau.

Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tương tác qua lại theo xu hướng phủ định, bài trừ nhau của các mặt đối lập.

Mâu thuẫn là sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Như vậy mỗi một mâu thuẫn cũng phải bao gồm hai mặt đối lập, hai mặt này vừa thống nhất với nhau đồng thời hai mặt đó đấu tranh qua lại với nhau.

Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đêu là một thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối nhau…

Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm “mặt đối lập” là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Do đó cần phải phân biệt rằng không phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập mà trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ phủ định và chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hóa này tạo thành nguồn gốc động lực, đồng thời quy định các bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật thì hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.

Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn mang tính khách quan vì là cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy nên có tính phổ biến. Chính vì vậy mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật hiện tương và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau và trong bản thân mỗi sự vật hiện tượng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, vai trò tác động lẫn nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy cần phải có phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.

2. 2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau:

2. 2. 1. Sự thống nhất của các mặt đối lập:

Hai mặt đối lập trong sự vật tồn tại trong sư thống nhất của chúng. “Sự thống nhất” của các mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà là “nương tựa” vào nhau, tạo ra sự phù hợp, cân bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiêú được cho sư tồn tại của bất kì sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thấn sự vật tạo nên.

Ví dụ: Quan hệ lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất: khi lự lượng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển, hai hình thức này chính là điều kiện tiền đề cho sự phất triển của phương thức sản xuất. Nhưng quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau:

– Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lượng sản xuất.

– Thứ hai: Đó phải là một khái niệm “động” phản ánh được trạng thái biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.

– Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa nhận thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất được coi là thỏa đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ dẫn cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.

Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất” với nhau. Với ý nghĩa đó, sự thống nhất của các mặt đối lập còn bao hàm cả sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do đó sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hoá sang mặt đối lập kia-khi xét về một vài đặc trưng nào đó.

Ví dụ: Sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích giai cấp tư sản nhưng lại tạo tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.

Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.

Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối. Bản thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.

2. 2. 2. Sự đấu tranh của các mặt đối lập:

Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại với nhau, “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua laị theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.

Ví dụ về sự đấu tranh của các mặt đối lập: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản.

Không thể hiểu đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đó. Sự thủ tiêu chỉ là một trong những hình thức đấu tranh cảu các mặt đối lập. Tính đa dạng của hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập tuỳ thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như mối quan hệ qua lại giữa chúng, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, phụ thuộc vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.

Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của vật. Sự đấu tranh của mối quan hệ gắn bó với tính tuỵêt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Lênin viết:”Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa nó chính là nó nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tính tương đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất của các mặt đối lập là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.

Mâu thuẫn biện chứng có quan hệ như thế nào với nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển?

Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia ra làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt. Tất nhiên không phải xung khắc bất kì sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển, thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành đối lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn… Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao, chính vì vậy Mác viết: “Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt đối lập, sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới”. Nhấn mạnh hơn nữa tư tưởng ấy Lênin khẳng định” Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.

2. 2. 3. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập:

Không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá giữ chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau.

Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán vị đổi chỗ một cách giản đơn máy móc. Thông thường mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:

+ Phương thức thứ 1: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.

Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới cao hơn về trình độ.

+ Phương thức thứ 2: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.

Ví dụ về sự chuyển hoá của các mặt đối lập: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tóm lại: Từ lý luận về mâu thuẫn cho ta thấy trong thế giới hiện thực bất kì sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đâú tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành, sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát triển.

– Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật: đó là thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát từ bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một cách chi tiết cụ thể. . .

– Phải nắm vững phương pháp giải quyết mẫu thuẫn đó là thông qua đấu tranh giữa các mặt đối lập chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.

– Phải biết vận dung linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua hình thức chuyển hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa [đồng hóa] vào mặt còn lại [chuyển hóa giai cấp tư sản thành giai cấp vô sản], hoặc mặt này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa sang những hình mới của mình [VD: giải quyết mâu thuẫn giữa nông thôn và thành thị: cải tạo nông thôn thành nông thôn mới, làm ranh giới, sự khác biệt giảm dần]

1. Khái quát chung về kinh tế thị trường [KTTT]:

Trong mô hình cũ của CNXH, sự vận hành của nền kinh tế chủ yếu dựa trên mệnh lệnh, kế hoạch của Nhà nước và một hệ thống bao cấp từ sản xuất đến tiêu dùng. Cơ chế kinh tế này, tuy có ưu điểm là tránh được phân cực xã hội, nhưng lại bộc lộ nhiều nhược diểm cơ bản. Chẳng những quy luật kinh tế khách quan được coi thường, mà tính tự chủ, năng động, sáng tạo của người lao động cũng không được phát huy một cách đầy đủ. Sự nghiệp đổi mới được tiến hành hơn 10 năm qua ở nước ta gắn liền với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trương, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trứơc hết ta tìm hiểu một số khái niệm: Khái niệm kinh tế hàng hoá, thị trường, cơ chế thị trường.

* Kinh tế hàng hoá: là kiểu tổ chức kinh tễ mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra để bán, để trao đổi trên thị trường.

* Thị trường: trong nền sản xuất, mọi sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đều được mua bán trên thị trường. Thị trường là một tập hợp tất yếu và hữu cơ của toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.

– Thị trường gắn liền với địa điểm nhất định, trong đó diễn ra những quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá.

– Sản xuất hàng hoá phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào, phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm vật môi giới.

– Ngày nay các nhà kinh tế học thống nhất với nhau khái niệm về thị trường như sau: Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng.

* Cơ chế thị trường: là cơ chế tự chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó được giải quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế.

Từ đó ta có khái niệm: “Nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định, vận động theo cơ chế thị trường gọi là “nền kinh tế thị trường””.

Trong hội thảo “Phấn đấu đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống ” có hai ý kiến khác nhau:

Một là, xem kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người phân phối các nguồn lực chủ yếu, lấy lợi ích vật chất, cung cầu, thị trường mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là một phương tổ chức vận hành kinh tế – xã hội. Tự nó không mang tính kinh tế – xã hội, không tốt mà cũng không xấu. Tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Theo quan điểm này, kinh tế thị trường là vật “trung tính”, là “công nghệ sản xuất” ai sử dụng cũng được.

Hai là, xem kinh tế thị trường là một loại quan hệ kinh tế – xã hội, nó in đậm dấu của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không phải chỉ là cái riêng lẻ đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự hoạt động qua lại của các chủ thể hành động đó có thể có lợi cho người này tầng lớp hay giai cấp này, có hại cho tầng lớp hay giai cấp khác cho nên kinh tế thị trường có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định không thể nhấn mạnh chỉ một mặt trong hai mặt đó.

Hiện nay không có một nước nào trên thế giới có nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường “hoàn hảo”, hoàn toàn do sự chi phối của “bàn tay vô hình” theo cách nói của Adam Smith, nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh ở thế kỷ XIII mà trái lại chúng đều vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nứơc ở những mức độ phạm vi khác nhau. Và ở nước ta kinh tế thị trường mà Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng và phát triển trong thời kì quá độ lên CNXH, là “nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước”.

* Đặc điểm của nền kinh tế thị trường:

Có thể nói, kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển đến giai đoạn cao. Kinh tế thị trường là một loại hình mà trong đó, các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người đuợc biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua-bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ. Trong kinh tế thị trường, các qua hệ hàng hoá -tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những diều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng, dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ…

KTTT trước hết là kinh tế hàng hoá, với đặc trưng phổ biến của nó là người sản xuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán, để trao đổi chứ không phải để tự tiêu dùng, hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước.

KTTT là nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần kinh tế, về hình thức phân phối.

KTTT được sử dụng như một công cụ, một phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

KTTT là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển trong cả những điều kiện vốn, ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp.

KTTT luôn vận động, phát triển tái sinh, do đó để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, các chính sách kinh tế vĩ mô phải thường xuyên được bổ xung hoàn thiện.

KTTT gắn liền với nhà nước pháp quyền và nhà nước sẽ quản lý bằng pháp luật.

2. Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.

2. 1. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi một mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống của nhân loại đã và đang trãi qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung-tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.

Kinh tế tự nhiên là kiểu kinh tế–xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó đựơc thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuàn hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp tự cung-tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội Công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong XHTB cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung-tự cấp gắn liền với quan niệm truyền thống về kinh tế XHCN tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật, nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất- kinh doanh, sản xuất không gắn liền với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực-sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của CNXH không thực hiện được.

Kinh tế hàng hoá, bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ chế độ Cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung-tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử của mình, vì thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được đổi thay từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế – xã hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội Chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nhân dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trong xã hội Phong kiến, và đến CNTB thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn được phát triển đến giai đoạn cao hơn đó là kinh tế thị trường.

KTTT là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trãi qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất, là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản như :phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu… đó là cơ chế hỗn hợp “có sự điều tiết vĩ mô” của nhà nước để khắc phục những khuyết tật của nó.

Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra CNTB” và sự phát triển của kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của CNTB, nhưng tuyệt nhiên kinh tế thị trường không phải là chế độ kinh tế – xã hội. kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học – công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học – kỹ thuật, của lực lượng sản xuất.

Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản trong nền kinh tế nước ta sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung-tự cấp đang còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng [tăng trưởng kinh tế] còn bao hàm cả sự thay đổi về chất [những biến đổi về mặt xã hội]. Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C. Mác là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài ngừơi sẽ tiến tới Chủ nghĩa Cộng sản mà giai đoạn thấp của nó là CNXH. CNXH không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết của các quan hệ xã hội, là một sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động đem lại cuộc sống hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh, hạnh phú của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của toàn xã hội-toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính XHCN, là sự phát triển hiện đại. Nghĩa là, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

2. 2. Một số đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch tập trung – hành chính, quan liêu – bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện nay và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991 đã nêu lên những đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.

Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trãi qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Mặt khác, thế giới vẫn nằm trong thời quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên sự phát triển kinh tế – xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết khách quan và cũng là nội dung yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” vừa là mục tiêu vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đế sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi “Bàn tay hữu hình” của nhà nước trong việc điều tiết, quản lí nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc xây dựng kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế ở nước ta đã quy định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở cho chế độ xã hội mới-chế độ XHCN.

Thứ ba, nhà nước quản lý nền định hướng XHCN ở nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vỡ dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhà nước ta là nhà nước “của dân, do dân và vỡ dân”, nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta.

Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất- kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thụng qua thị trường. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vận động theo những quy luật nội tại của nền kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Việc quản lý Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những “thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được.

vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội. không có ai ngoài nhà nước lại có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu- nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước. Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế sao cho tương hợp với thị trường.

Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội húa nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội húa trờn cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế với những khu vực hóa và toàn cầu hóa đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung- tự cấp mà phải mở của, hội nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Thứ sáu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có thể tham gia vào quá trình phát triển va được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ họ bỏ ra, là giảm bớt chênh lệch giàu – nghèo giữa các tầng lớp dân cư giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia.

Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phải là “Quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ỏi, có văn hóa, có kỉ cương, xóa bỏ áp bức bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc”.

Từ những đặc trưng và sự phát triển đúng hướng của nền kinh tế thị trường ở nước ta chúng ta đó đạt được nhiều thành tựu to lớn:

* Nền kinh tế Việt Nam chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa toàn diện, khép kín sang một nền kinh tế thị trường mới, theo định hướng XHCN. Công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội được mở đầu từ Đại hội VI của ĐCS Việt Nam [ 1986]

– Năm 1991 Đại hội VII của Đảng nhận định “Công cuộc đổi mới đó đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng nhưng nước ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội”.

– Năm 1996 Đại hội đảng VIII nhận định “Nước ta đó ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, nhưng một số mặt cũng chưa được củng cố vững chắc”. Nền kinh tế Việt Nam đó ra khỏi khủng hoảng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao: tốc độ tăng GDP bình quân thời kỳ 1986- 1990 là 3, 6%; 1991-1995 là 8, 2%; 1996-2000 là 7%.

* Lạm phát được đẩy lùi từ 67, 4% năm 1990 xuống 12, 7% năm 1995, 0, 1% năm 1999 và 0% năm 2000. Phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.

* Điều kiện vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rừ rệt, văn hóa không ngừng tiến bộ. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực đó trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.

* Quốc phũng và an ninh được đảm bảo, ổn định chính trị được giữ vững, các mối quan hệ kinh tế được mở rộng với nhiều nước trên thế giới, bộ mặt đất nước đó có những biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực.

Đại hội IX khẳng định :”Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”.

Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỡ quá độ lên CNXH.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội IX Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đó chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua tại đại hội VII của Đảng đồng thời giúp đảng ta nhận thức ngày càng rừ hơn về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định : Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vỡ thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH định hướng cho mọi hoạt động của Đảng ta hiện nay và trong những thập kỉ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Tuy vậy đi đôi với thành tựu là rất nhiều khó khăn đũi hỏi phải có phương hướng giải quyết đúng đắn, đặc biệt, lao động và việc làm đang là vấn đề gay gắt nổi cộm nhất hiện nay với tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 74% và tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 30% tỉ lệ lao động được đào tạo về chuyên môn kĩ thuật cũng thấp trong tổng số lao động :theo kết quả điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/1999, công nhân kỹ thuật và nghiệp vụ chiếm 30, 3%; lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp chiếm 36, 8%; trình độ Cao đẳng và Đại học chiếm 31, 6%; trên Đại học chiếm 1, 3%. [Kinh tế và phát triển số 42, tháng12/2000, tr19]. Từ năm 2001, khi Việt Nam áp dụng chuẩn hóa đói nghèo mới thì tỷ lệ đói nghèo sẽ cũng khỏ hơn, khoảng 17% so với 11% chuẩn cũ. Hiện tại, mức tiêu dùng của dân cư thấp, tích lũy nội bộ của nền kinh
tế mới đạt khoảng 25-27%GDP, cũng tích lũy rũng chỉ đạt dưới 20% GDP. Trong khi đó kết cấu hạ tầng cũng yếu kém, sản lượng điện bình quân đầu người mới chỉ đạt trên 340kwh, mật độ đường giao thông tính trên 1000 dân cũng thấp xa so với các nước xung quanh. [Thời báo kinh tế Việt Nam, số 151, 18/12/2000]

Nguyên nhân phát sinh ra những khó khăn trên là trong nội bộ nền kinh tế của nước ta vẫn cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường.

3. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam.

3. 1. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN.

Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vỡ con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lựu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiều của CNXH. Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu đi lên CNXH, chúng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát. Một trong những điều kiện đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng con người trong giai đoạn hiện nay là đời sống sinh hoạt vật chất. Nhưng nhu cầu về vật chất và tinh thần phong phú của con người chỉ có thể được thỏa món trong một nền kinh tế vững vàng, ổn định, phát triển cao, có tốc độ tăng trưởng nhanh. Việc tiến hành sự nghiệp trồng người hôm nay gắn bó một cách chặt chẽ với quá trình mở rộng, hoàn thiện kinh tế thị trường kết hợp với mở cửa giao lưu quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ IX đó khẳng định : “Giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục- đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cở bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.

KTTT là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua- bán, trao đổi hàng hóa- tiền tệ. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hóa- tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trờn nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh trình đọ văn minh, và sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lờn. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng, dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ, ô nhiễm môi trường…

Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đối với nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ cế thị trường có sự quản lý cả Nhà nước theo định hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng phát triển con người cho thế kỷ XXI.

Trong những năm vừa qua, kinh tế thị trường ở nước ta đó được nhân dân hưởng ứng rộng rói và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sôi động hơn, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát triển hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi. Đây là những kết quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát triển và vận động đúng đắn các quy luật xã hội. quá trình biện chứng đi lên CNXN từ khách quan đáng trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.

Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần được đề cập đến: kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo ra điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, mà cũng tạo ra môi trường xã hội thích hợp cho con người phát triển hài hòa, toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động, sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhẹn, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả, từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người, góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ vốn có của người lao động trong nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu từ ngàn đời ở con ngời Viêt Nam. kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp để con người mở rộng các mối quan hệ, giao lưu buôn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới theo tiêu chí thị trường như chữ tín trong chất lượng, chữ tín trong giao dịch ….

Tuy nhiên, cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người, có những lúc, những nơi, kinh tế thị trường không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại, cũng làm tha húa bản chất con người, biến con người thành nô lệ sùng bài đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, văn hóa, đạo đức, luân lý… Bờn cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế gây ra những tác động xấu. Việc quá đề cao lợi ích cá nhân, bất chấp lợi ích tập thể và lợi ích xã hội là một nguy cơ lớn. Lợi nhuận kích thích sản xuất, nhưng mặt khác, lợi nhuận cũng tự phát đẩy con người tới những hành vi phá hoại môi trưũng sống và làm tha húa đạo đức, nhân phẩm. Sự cạnh tranh trên thương trường làm cho con người năng động hơn, sáng tạo hơn nhưng nhiều khi cũng làm mất đi lũng nhân ỏi, vị tha, biến con người thành những cỗ mỏy chỉ biết tính toỏn một cách sũng phẳng, lạnh lựng, thiếu nhân tính. Quan hệ hàng húa – tiền tệ làm sống động thị trường nhưng cũng làm xói mũn nhân cách và hạ thấp phẩm giỏ của con người. Ngoài ra đi kèm với kinh tế thị trường là hàng loạt tệ nạn xã hội để đưa đến những rối loạn, khủng hoảng cho gia đình, hạt nhân, tế bào của xã hội. Nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma tuý, buụn lậu, hối lộ, tham nhũng… là những căn bệnh trầm kha không dễ khắc phục trong kinh tế thị trường. Thật không sai khi hình dung kinh tế thị trường là con dao hai lưỡi, nếu dùng không cẩn thận rất dễ bị đứt tay.

Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố đầu độc, hủy hoại con người.

Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản. Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần htiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đó được xây dựng ”. Như vậy, Đảng ta vạch ra sự thống nhất giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người mới XHCN : ”Việc áp dụng cơ chế thị trường đũi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này không phát huy được tác động tích cực, to lơn cũng như ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vu công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục tâm lý sựng bỏi đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thưũng các giỏ trị nhân văn. Phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc. Đây chính là công cụ, phưong tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn đó nêu”. Và Đại hội Đảng IX cũng xác định : ”Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”.

Túm lại, kinh tế thị trường là mục tiều xây dựng CNXH là một mâu thuẫn biện chứng xã hội trong thực tiễn nước ta hiện nay. Mâu thuẫn đó được giải quyết bằng cách tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và phát huy tối đa các giá trị tinh thần dân tộc.

3. 2. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng XHCN.

Một trong những luận điểm rất quan trọng phản ánh tư duy mới của Đảng ta thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng VI là : ”chính sách, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần”. Từ đó, Đảng ta từng bước xác định chủ trương xây dựng ở nước ta một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Trải qua thực tiễn đổi mới, chính sách, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN đó đưa lại hiệu quả, góp phần lớn vào sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Năm 1996, khi tổng kết 10 năm đổi mới, chúng ta đó thống nhất đánh giá, đó là quyết sách chiến lược đúng đắn của Đảng. Nhờ đó đó tạo nờn những thành tựu to lớn, đưa nước ta vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu, thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo văn kiện Đại hội IX, có ý kiến băn khoăn về việc Đảng ta tiếp tục xác định chủ trương xây dựng ” nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nhất là cụm từ ”định hướng XHCN” có người cho rằng :” cả về lý thuyết và thực tiễn, kinh tế thị trường – điều kiện tất yếu để phát triển kinh tế – không thể đi đôi với định hướng XHCN được” và ”Giữa hai cái phải chọn lấy một, không thể ”Bắt cá hai tay”” và theo họ, nếu chọn định hướng thì “đấy là thất bại, là ngừ cụt”. í kiến đó lập luận rằng đó là nền kinh tế thị trường thì đương nhiên nó vận động theo định hướng TBCN, nước ta đang cần phát triển, cần vận dụng cơ chế thị trường để thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, thì hà tất phải nêu “định hướng XHCN”. Việc nêu cụm từ ”định hướng XHCN” có thể dẫn đến hai điều bất lợi: một là, kinh tế thị trường là sản phẩm của CNTB nên không thể gắn cho nó cái định hướng XHCN; hai là, nêu định hướng XHCN vào đây dễ gây ra nghi ngại cho các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư tư nhân trong nước và các nhà đầu tư từ các nước TBCN.

Như đó biết, vào cuối thời kỳ cụng xã nguyên thủy, đầu thời kỳ xã hội nụ lệ, loài người đó có một bước nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong sản xuất đó bắt đầu có sản phẩm thặng dư, tức là phần sản phẩm vượt quá phần sản phẩm tất yếu do người sản xuất tạo ra, mặc dù lúc đầu sự ”dư thừa” đó chỉ là ngẫu nhiên, nhưng cùng với lao động tư hữu được xác lập, người lao động đó có thể làm chủ những sản phẩm ”dư thừa” đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm mà mình thiếu do kết quả của phân cụng chuyên mụn húa đưa lại. Thị trường sơ khai xuất hiện từ đó.

Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mói đến giai đoạn cuối xã hội phong kiến đầu xã hội TBCN thì kinh tế thị trường mới được xác lập, và phải đến cuối giai đoạn của CNTB tự do kinh doanh cạnh tranh thì kinh tế thị trường mới được xác lập hoàn toàn.

KTTT trước hết là kinh tế hàng hóa với đặc trưng phổ biến của nó là những người sản xuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán [để trao đổi], chứ không phải để tự tiêu dùng, hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước. Ngày nay, khi kinh tế thị trường hiện đại đó phát triển một cách phổ biến thì đặc trưng căn bản đó không những không mất đi mà cũng được bổ sung, làm phong phú thêm bởi các hình thức và nội dung của quan hệ trao đổi và vai trò can thiệp của Nhà nước vào quá trình đó.

Như vậy, kinh tế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một công trình sỏng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi, đó là trình độ văn minh mà nhân loại đó đạt được. Do đó, mọi quan niệm cho rằng kinh tế thị trường là phát minh riêng của CNTB là không có căn cứ : việc đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB để rồi né tránh, hoặc sử dụng nó như một công cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng cơ chế thị trường có nghĩa là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN… đều có thể dẫn đến những sai lầm đáng tiếc. Sự ra đời của kinh tế thị trường TBCN chỉ đẩy lùi kinh tế thị trường lên một giai đoạn phát triển mới về chất cả về quy mô, tính chất và mức độ bao quát của nó. Là sự phát triển tiếp tục xu hướng khách quan nền kinh tế của CNXH nói chung, của thời kỳ quá độ lên CNXH nói riêng, là một sự phát triển mang tính phủ định biện chứng đối với kinh tế thị trường TBCN. Từ đấy ra đời một nền kinh tế thị trường mới về chất.

KTTT bao giờ cũng tồn tại dưới một thể chế chính trị, một chế độ chính trị. Nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, CNTB đó đạt được những thành tựu về kinh tế – xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng, con người nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển.

Ngay trong văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta đó khẳng định : “Sản xuất hàng hóa là thành tựu, văn minh của nhân loại”, chúng ta không chỉ kiên định “Không bỏ qua kinh tế hàng hóa” như văn kiện Đại hội VI đó nêu, mà cũng khẳng định kinh tế thị trường cũng tồn tại khách quan cho đến khi CNXH được xây dựng. Trong dự thảo văn kiện Đại hội IX lại tiếp tục khẳng định :”Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thi trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”.

Mặt khác, vấn đề định hướng phát triển cho nền kinh tế thị trường cũng là vấn đề đáng được quan tâm. Trong lịch sử hình thành Nhà nước, chức năng kinh tế thường xuyên xuất hiện sau chức năng hành chính công, lúc đầu chỉ “mờ nhạt”, đơn thuần là thu thuế của các tầng dân cư có hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng, do tính tự phát của kinh tế thị trường đó gây ra hậu quả ngày càng nặng nề mà xã hội phải gánh chịu, Nhà nước phải can thiệp sâu hơn về kinh tế. Từ đó, chức năng kinh tế của Nhà nước cũng dần được xác định. Học thuyết của J. M. Kên [Nhà kinh tế học Anh, 1884. 1946] là một điển hình về sự kờu gọi phải có “Bàn tay hữu hình” của Nhà nước can thiệp vào thị trường để hạn chế tính tự phát, tiêu cực của cơ chế thị trường… Do đó, việc can thiệp vào quá trình kinh tế đó được coi là đương nhiên, mang tính quy luật của kinh tế thị trường, và việc định hướng phát triển cho nền kinh tế đó cũng hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất giai cấp của đảng cầm quyền.

Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là công cụ của giai cấp cầm quyền, nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường là nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp, Đảng cầm quyền. Nhà nước TBCN can thiệp vào kinh tế thị trường ngay từ buổi bình minh của nú là để đẩy nhanh quá trình tích lũy nguyên thủy của tư bản, nhằm hình thành và phát triển CNTB; ngay cả sau này, khi nhà nước TBCN ban hành các đạo luật chống độc quền cũng không phải vỡ lợi ích của giai cấp cần lao mà vẫn vỡ lợi ích toàn cục của chế độ TBCN nói chung và của các tập đoàn tài chính nói riêng.

Vì vậy, việc Nhà nước ta quản lý vĩ mô nền kinh tế, định hướng XHCN cho nền kinh tế thị trường là điều đương nhiên, phù hợp với tính quy luật đó hình thành trong thực tiễn. Ngay trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII, Đảng ta đó khẳng định :”Đổi mới và tăng cường quản lý Nhà nước về kinh tế – xã hội”. Coi đó như là một chính sách lớn để đảm bảo cho định hướng XHCN được thực hiện.

Việc xác định “định hướng XHCN” cho nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng liệu có gây ra sự nghi ngại cho các nhà đầu tư hay không? Chúng ta biết rằng, mục đính đầu tư của các nhà Tư bản trong hay ngoài nước trước hết là phải thu được lợi nhuận, tỷ xuất lợi nhuận càng cao thì khả năng thu hút đầu tư càng lớn, đó là bản chất của vấn đề. Do đó, việc có hay không sự nghi ngại của các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư có xuất xứ từ các nước TBCN, phụ thuộc trước hết vào vấn đề lợi thế so sánh giữa thị trường Việt Nam với thị trường quốc tế; sau đó là những vấn đề thuộc môi trường kinh doanh như :cơ sở hạ tầng, hệ số an toàn về vốn, pháp luật, chính sánh, sự hấp dẫn của thị trường, những ưu đói có tính cạnh tranh cao trong thu hỳt đối tác đầu tư so với các nước trong khu vực… chứ không phải là có hay không cụm từ “định hướng XHCN” trong văn kiện của Đại hội Đảng.

Trong bước chuyển sang kinh tế thị trường, vấn đề “định hướng XHCN” được xem xét một cách cơ bản, toàn diện từ kinh tế đến chính trị, xã hội. Xột riêng gúc độ kinh tế, “định hướng XHCN” chỉ được xem từ bản thân phương thức sản xuất, từ hình thỏi kinh tế – xã hội, không thể xem xét “định hướng XHCN” trong phạm vi kinh tế. Xét riêng phạm vi kinh tế, có hai nhân tố khách quan trực tiếp góp phần bảo đảm tính “định hướng XHCN”. Trước hết là định hướng về chế độ kinh tế, vai trò quản lý của Nhà nước XHCN và sau đó là vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.

Về chế độ kinh tế, trải qua một số năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đó mang bản chất mới, chứa đựng những động lực phát triển bên trong từ những khả năng vốn có của chế độ sở hữu đa dạng. Nhờ chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, bước đầu niềm tin vào CNXH của người dân được củng cố. Trong lũng dân, CNXH không chỉ là những triết tự lý thuyết trừu tượng mà gắn liền với những vấn đề cụ thể của đời thường tiến về phía trước phù hợp với cách nghĩ, cách làm của hàng triệu quần chúng. Vì vậy, càng đổi mới kinh tế càng gần với CNXH hơn.

Chế độ kinh tế mới mang tinh thần dân chủ, giải phóng sức sản xuất, thật sự tôn trọng cá nhân, phát triển cá nhân trong quan hệ hợp tác, là cơ sở của nền dân chủ mang bản chất XHCN, trong đó quyền công dân về kinh tế, trước hết là quyền tự do sản xuất, buôn bán công khai, hîp pháp, lao động tích lũy phát triển sản xuất- kinh doanh, biết làm giàu cho mình và cho xã hội được bảo đảm. Cũng từ đó lợi ích thiết thân của mỗi người được thực hiện tạo điều kiện để thực hiện chiến lược kinh tế – xã hội của đất nước. Chúng ta không thể thực hiện được ý tưởng “định hướng XHCN” nếu không coi trọng đúng mức kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường gắn kiền với kinh tế nhiều thành phần và xu hướng xã hội hóa, không biệt lập mà đoàn kết, trong đó có xu hướng chỉ đạo.

“Định hướng XHCN” cũng thể hiện ở quan hệ phân phối: phân phối cụng bằng sẽ tạo động lực cho sự phát triển. Trong kinh tế thị trường, chúng ta chủ trương phân phối theo lao động, theo vốn trên cơ sở khuyến khích mọi người tự do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp, đồng thời thực hiện chính sách cụng bằng xã hội. Chế độ XHCN là chế độ của con người, do con người, vỡ con người do đó chúng ta chủ trương chống bóc lột, bất công, chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho nền đạo đức mới, một lối sống lành mạnh.

Khả năng định hướng trước hết phụ thuộc vào yếu tố chính trị- sự lãnh đạo của Đảng, sự cân nhắc chọn lựa từ những yếu tố dân tộc, thời đại. Một Đảng có đủ bản lĩnh mới vỡ CNXH, vỡ hạnh phỳc của nhân dân, có trớ tuệ, có khả năng hình thành một hệ thống tri thức khoa học và cụng nghệ chính trị thích hợp, có sức hỳt đối với các lực lượng kinh tế khác, có năng lực tổ chức thực tiễn. Thực tiễn lãnh đạo cách mạng cũng như công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam chứng tỏ không có một Đảng nào ngoài ĐCS Việt Nam làm được điều đó. Chính công cuộc đổi mới đó củng cố thờm niềm tin của nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng, về con đường XHCN mà Đảng và Bác Hồ đó lựa chọn. KTTT gắn liền với nhà nước pháp quyền, nhân tố định hướng cũng tựy thuộc vào năng lực quản lý, điều hành nhà nước. Nhà nước điều hành nền kinh tế trên cơ sở pháp luật và bằng pháp luật bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật vốn có của thị trường, chống lại những động lực vật chất trái chiều của nó. Khả năng định hướng cũng tựy thuộc vào khả năng kiểm soát của Nhà nước, trên cơ sở xác định rừ các chủ thể tham gia thị trường, tạo môi trường cho hoạt động sản xuất- kinh doanh, đồng thời chống được tệ tham nhũng quan liêu, làm trong sạch bộ máy Nhà nước. Khả năng định hướng cũng tựy thuộc vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ lao động kiểu mới, trung thành với lý tưởng XHCN, có kiến thức để xây dựng CNXH. Cùng với việc thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế ở nước ta cho đến khi CNXH được xây dựng thành công như đó nêu trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng, lần này trong văn kiện Đại hội IX, Đảng ta khẳng định : mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Như vậy, việc xác định chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xây dựng “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” hoàn toàn không phải là kiểu “Bắt cá hai tay hay là một sự lựa chọn theo hệ tư tưởng… do Đảng áp đặt lên toàn xã hội”. Trái lại, đó là một chủ trương đúng đắn, là sự nhất quán giữa cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta với tính chất của thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN không những không làm hạn chế khả năng thu hút đầu tư cho xây dựng, phát triển đất nước mà cũng là động lực tinh thần và vật chất to lớn để thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, phát huy nội lực – sức mạnh dân tộc, gắn với nguồn lực bên ngoài – sức mạnh thời đại để dân tộc ta vững bước tiến vào thế kỷ mới.

Video liên quan

Chủ Đề