Vì sao dẫn đến tình hình chiến tranh lạnh sau năm 1945

ANH PHÓ trả lời: Thưa ông Mã Thành,

Trong lịch sử thế giới, người ta thường dùng khái niệm “chiến tranh lạnh” để chỉ tình trạng xung đột căng thẳng sau Thế chiến lần thứ hai [1939-1945] giữa phe các nước xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô với phe các nước tư bản [gọi là “thế giới tự do”] đứng đầu là Mỹ. Thời gian cuộc chiến tranh lạnh diễn ra được tính từ năm 1945 [kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai] đến năm 1991 [Liên Xô sụp đổ].

Như ông cũng thấy, sau chiến thắng của Liên Xô [cũ] chống phát xít Đức trong những năm 1941-1945 và sự sụp đổ hoàn toàn của các nước phát xít Đức, Ý, Nhật, chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước [Liên Xô], bước đầu hình thành một hệ thống thế giới gồm nhiều nước xã hội chủ nghĩa trên những lục địa khác nhau. Cũng từ sau đại chiến thế giới thứ hai, theo thỏa thuận tại Hội nghị Yalta [tháng 2-1945] giữa ba cường quốc Liên Xô, Mỹ và Anh thì một trật tự thế giới mới đã được thành lập mà lịch sử thường gọi là “trật tự hai cực Yalta”. Đó là sự phân chia ảnh hưởng giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô, mỗi siêu cường đứng đầu “một cực” với các khu vực ảnh hưởng của mình…

Những biến chuyển to lớn đó đã làm thay đổi sâu sắc tình hình thế giới và bộ mặt của xã hội loài người. Cuộc “chiến tranh lạnh” diễn ra có khi âm ỉ, có khi căng thẳng đến mức độ “nóng” đáng kể. Hai phe ngày càng thể hiện lập trường thù địch với nhau, từng lúc từng nơi “nóng” dần, đặc biệt là từ khi Trung Quốc [một nước châu Á đông dân nhất thế giới] chuyển qua chế độ xã hội chủ nghĩa [1949]…

Cuộc chiến tranh lạnh như vậy diễn ra thường xuyên, liên tục. Đôi khi hai phe phải đối đầu với nhau một cách tàn bạo, khốc liệt bằng “chiến tranh nóng” cục bộ như trường hợp chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào tháng 6-1950. Trường hợp Việt Nam ta gánh chịu “nóng” suốt 30 năm ròng rã từ 1945 đến 1975 cũng là nằm trong cuộc “chiến tranh lạnh” đó, ông ạ.

Thân chào.

[Nguyệt san Pháp Luật TP.HCM tháng 3-2010]

Đọc tài liệu tổng hợp và chia sẻ nội dung câu hỏi thảo luận trang 59 SGK Lịch sử 12 một cách hữu ích thông qua việc chia sẻ tài liệu Soạn sử 12 bài 9 cho các em tìm ra câu trả lời chính xác và ngắn gọn nhất cho từng câu hỏi trong bài học.

Trả lời câu  hỏi thảo luận trang 59 sgk lịch sử lớp 12

Câu hỏi

Hãy nêu và phân tích những sự kiện dẫn tới tình trạng Chiến tranh lạnh giữa hai phe - tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa?

Hướng dẫn trả lời

Dựa vào sgk Lịch sử 12 trang 58, 59 để trả lời

Đáp án tham khảo

- Sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc.

+ Liên Xô chủ trương duy trì hòa bình và an ninh thế giới, đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới.

+ Mĩ ra sức chống phá Liên Xô, đẩy lùi phong trào cách mạng thế giới nhằm mưu đồ bá chủ thế giới.

- Ngày 12/3/1947, tổng thống Mĩ đưa ra một thông điệp: “Sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với Mĩ và đề nghị viện trợ khẩn cấp cho hai nước Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì”. Đây là sự kiện khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô, gây nên cuộc Chiến tranh lạnh.

- Ngày 4/4/1949, Tổ chức hiệp Bắc Đại Tây Dương [NATO] ra đời. Đây là liên minh quân sự lớn nhất của các nước phương Tây do Mĩ đứng đầu.

- Tháng 1/1949, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế.

- Tháng 5/1955, Các nước thuộc khối XHCN thành lập Tổ chức Hiệp ước Vácsava, liên minh chính trị-quân sự mang tính chất phòng thủ của các nước XHCN.

⟹ Sự ra đời của NATO và tổ chức SEV đã đánh dấu sự xác lập của hai phe, chiến tranh lạnh bao trùm cả thế giới.

Bổ sung kiến thức về tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai phe - tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa

Một số kiến thức mở rộng xoay quanh Chiến tranh lạnh cho các em học sinh tham khảo và đa dạng hóa dạng câu hỏi cho các em học sinh tiếp cận kiến thức.

Em hiểu thế nào là chiến tranh lạnh?

Trả lời:

Chiến tranh Lạnh [1946–1989] là tình trạng tiếp nối xung đột chính trị, căng thẳng quân sự và cạnh tranh kinh tế tồn tại sau Chiến tranh thế giới thứ 2 [1939–1945], xung đột này diễn ra chủ yếu giữa Liên bang Xô viết cùng các quốc gia đồng minh của họ, với các cường quốc thuộc thế giới phương Tây, gồm cả Hoa Kỳ.

Chiến tranh lạnh là gì?

Trả lời:

Chiến tranh lạnh là chiến tranh không đổ máu, không tiếng súng, thực chất là cuộc chạy đua giữa hai cường quốc Mĩ và Liên Xô, đại diện cho hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực vũ trang, kinh tế, chính trị, ngoại giao. Cuộc chiến tranh lạnh diễn ra trên bốn thập kỉ, thực tế chưa từng có cuộc xung đột trực tiếp nhưng những ảnh hưởng của nó lan rộng khắp thế giới.

=> Chiến tranh lạnh là cuộc chiến tranh giữa Mĩ và Liên Xô, mặc dù không có tiếng súng nhưng khiến quan hệ quốc tế luôn trong tình trạng căng thẳng, chiến tranh cục bộ diễn ra ở nhiều nơi.

Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh lạnh là gì?

Trả lời:

Có ba nguyên nhân chính dẫn đến bùng nổ Chiến tranh lanh:

-  Sự đối lập về mục tiêu và chiến lươc giữa hai cường quốc:

+ Liên Xô chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội và đảy mạnh phong trào cách mạng thế giới.

+ Mĩ ra sức chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.

-  Sự ra đời của kế hoạch Mácsan.

-  Việc thành lập tổ chức Hiêp ước Bắc Đại Tây Dương [NATO].

Trong đó, nguyên nhân đầu tiên là quan trọng nhất, đưa đến các hành động của Mĩ và Liên Xô trong giai đoạn này.

Mục tiêu của cuộc Chiến tranh lạnh là gì?

Trả lời:

Mục tiêu của Mĩ trong việc tiến hành Chiến tranh lạnh là:

+ Chống phá Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa, chống phong trào cách mạng, mưu đồ làm bá chủ thế giới.

+ Lo ngại trước ảnh hưởng to lớn của Liên Xô và Đông Âu, sự thắng lợi của CHND Trung Quốc, CNXH đã trở thành hệ thống thế giới từ Động Âu sang Đông Á.

+ Sau CTTG II, là nước tư bản giàu mạnh nhất, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử, tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới.

Xu thế hòa hoãn dẫn đến chấm dứt chiến tranh lạnh diễn ra như thế nào?

Trả lời:

- Đầu những năm 70, xu hướng hòa hoãn Đông - Tây xuất hiện với những cuộc thương lượng Xô - Mỹ.

- Ngày 9/11/1972, hai nước Đức ký kết tại Bon Hiệp định về những cơ sở quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức làm tình hình châu Âu bớt căng thẳng.

- Năm 1972, Xô - Mỹ thỏa thuận hạn chế vũ khí chiến lược, ký Hiệp ước ABM [Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo], SALT-1 [Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược], đánh dấu sự hình thành thế cân bằng về quân sự và vũ khí hạt nhân chiến lược giữa hai cường quốc.

- Tháng 8/1975, 33 nước châu Âu và Mỹ, Canađa đã ký Định ước Hen-xin-ki, khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia và sự hợp tác giữa các nước, tạo nên một cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh châu Âu.

- Từ 1985, nguyên thủ Xô - Mỹ tăng cường gặp gỡ, ký kết nhiều văn kiện hợp tác kinh tế, khoa học - kĩ thuật, trọng tâm là thuận thủ tiêu tên lửa tầm trung châu Âu, cắt giảm vũ khí chiến lược và hạn chế chạy đua vũ trang.

Tháng 12/1989, tại Manta [Địa Trung Hải], Xô - Mỹ tuyên bố chấm dứt “chiến tranh lạnh” để ổn định và củng cố vị thế của mình.

Chiến tranh lạnh kết thúc đã 

A. tạo điều kiện tiên quyết cho các nước Đông Dương hội nhập quốc tế.

B. giúp các nước Đông Dương thoát khỏi sự lệ thuộc vào nguồn viện trợ từ bên ngoài.

C. thúc đẩy xu thế đối thoại, hợp tác giữa các nước Đông Dương với các nước khác.

D. giúp các nước Đông Dương thoát khỏi sự chi phối của Liên Xô và Mỹ.

Đáp án: C

***

Trên đây là phần hướng dẫn trả lời câu hỏi thảo luận trang 59 SGK Lịch sử lớp 12, nội dung chính: Phân tích những sự kiện dẫn tới tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai phe - tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.

Tiếp theo: Câu hỏi thảo luận trang 62 SGK Lịch sử 12

Thời điểm mở màn Chiến tranh Lạnh

Vào tháng 4/1947, thuật ngữ “Chiến tranh Lạnh” được đưa ra lần đầu tiên để miêu tả sự chia rẽ chính trị giữa Mỹ và Liên Xô. Cuộc đối đầu kéo dài đó được cho là kết thúc vào năm 1991 với sự sụp đổ của Liên Xô. Nhưng hóa ra, tình trạng ngưng đó dường như chỉ xảy ra trong trí tưởng tượng.

Đồ họa về cuộc cạnh tranh khốc liệt trên nhiều mặt giữa 2 cường quốc Mỹ và Nga hiện nay. Nguồn: BBC.

Mặc dù Washington và Moscow là các đồng minh hiệu quả trong trận chiến chung chống Đức Quốc xã, hai đối thủ về hệ tư tưởng này không còn có thể che giấu sự thù địch lẫn nhau vào thời điểm Thế chiến II kết thúc năm 1945. Sau đó là tình trạng đối đầu lạnh giá phủ khắp hành tinh trong khoảng nửa thế kỷ khiến nhiều người e sợ về một thảm họa chiến tranh hạt nhân hủy diệt.

75 năm trước, cũng vào tháng 4 này, Bertrand Baruch – nhà tài phiệt và chính khách Mỹ, đã sáng tạo ra thuật ngữ “Chiến tranh Lạnh” để mô tả thế căng thẳng đối đầu kéo dài giữa 2 phe.

Phát biểu trước một phái đoàn nghị sĩ Mỹ, ông Bertrand nói: “Chúng ta đừng để bị đánh lừa, chúng ta đang ở giữa một cuộc chiến tranh lạnh. Kẻ thù chúng ta được phát hiện ở nước ngoài và cả trong nước. Đừng bao giờ quên điều này: Sự bất ổn của chúng ta là cốt lõi trong thành công của họ”.

Các sử gia có xu hướng nhất trí rằng Chiến tranh Lạnh bắt đầu vào năm 1947 với cái gọi là Học thuyết Truman – một chương trình “kiềm chế” nhằm vào kẻ thù không đội trời chung của Mỹ, theo khuyến nghị của nhà ngoại giao Mỹ George Kennan, và kéo dài đến ngày 26/12/1991, khi Liên Xô chính thức giải thể.

Một số người khác thì lập luận rằng Chiến tranh Lạnh thực sự bắt đầu từ tận năm 1945 khi Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử lên các thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản vào những ngày cuối cùng của Thế chiến II.

Chính hành động đáng sợ đó [ném bom hạt nhân xuống Nhật Bản] – điều khiến cả Liên Xô và thế giới bất ngờ, thúc đẩy lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin tăng tốc chương trình hạt nhân Xô viết. Vào ngày 29/8/1949, Liên Xô thử thành công vũ khí hạt nhân đầu tiên của mình, nhờ đó đạt được thế cân bằng chiến lược với Mỹ.

Đối với hàng triệu người trên thế giới, đây là sự khởi đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh thực sự - một cơn ác mộng thực sự, trong đó 2 cường quốc vũ trang hạt nhân bị vướng chặt vào một trận chiến ý thức hệ. Tại Mỹ, cũng như tại Liên Xô, học sinh đều đặn tham gia các cuộc diễn tập khẩn cấp để chuẩn bị cho những điều khủng khiếp có thể xảy ra do chiến tranh hạt nhân.

Có lẽ thời điểm thế giới tiến sát nhất tới một cuộc chiến tranh hạt nhân quy mô lớn là trong cuộc Khủng hoảng Tên lửa Cuba năm 1962, khi Tổng thống Mỹ Kennedy và Lãnh đạo Liên Xô Khrushchev thực hiện những bước đi cân não để tránh đối đầu hạt nhân mà vẫn giữ được thể diện. Cuối cùng tên lửa đạn đạo của hai bên đã được rút khỏi Thổ Nhĩ Kỳ [gần Nga] và khỏi Cuba [gần Mỹ].

Liên Xô tan rã nhưng Chiến tranh Lạnh chưa thực sự mất đi

30 năm sau sự kiện Tên lửa Cuba, Liên Xô đã tan rã và chỉ còn tồn tại trong sách vở. Một câu hỏi đặt ra là Chiến tranh Lạnh đã thực sự chấm dứt khi đó hay bóng ma của nó vẫn còn đeo đẳng cho tới hiện tại?

Ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga đối mặt với thách thức to lớn là chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường. Lúc này, cả Nga và Mỹ đã gạt sang một bên sự thù địch trong quá khứ, còn các cố vấn phương Tây đã tới Nga để hỗ trợ nước này cải cách kinh tế.

Sử dụng các kỹ thuật “liệu pháp sốc” theo kiểu tự do hóa do Quỹ Tiền tệ Quốc tế [IMF] tài trợ, Nga đã xóa bỏ kiểm soát giá và trợ cấp nhà nước, trong khi đưa ra kế hoạch “cho vay cổ phiếu” dành cho tư nhân hóa các tài sản trước đây thuộc sở hữu nhà nước. Kết quả cuối cùng là hàng loạt thảm họa như lạm phát diện rộng, thất nghiệp, đối nghèo tràn lan, sự trỗi dậy của tầng lớp đầu sỏ chính trị và sự gia tăng chưa từng thấy tỷ lệ tử vong. Ít nhất một nghiên cứu đã quy trách nhiệm về tình trạng này cho mức độ tự do hóa cẩu thả.

Như vậy hợp tác đầu tiên hậu Xô viết giữa Nga và Mỹ đã không phải là một sự khởi đầu đầy hứa hẹn.

Bước ngoặt trong quan hệ Mỹ-Nga thời hiện đại xuất hiện sau loạt tấn công khủng bố vào ngày 11/9/2001. Dù ông Vladimir Putin là lãnh đạo thế giới đầu tiên gọi điện cho Tổng thống Mỹ George W. Bush, đề xuất Nga dành cho Mỹ sự ủng hộ vô điều kiện, phía Mỹ đã đáp lễ bằng một việc mà Nga sẽ không thể nào sớm quên: Chỉ vài tháng sau đó, vào ngày 13/12/2001, Tổng thống Bush chính thức thông báo rằng Mỹ sẽ rút khỏi Hiệp ước chống Tên lửa đạn đạo [ABM]. Được Moscow và Washington ký kết vào năm 1972, Hiệp ước ABM duy trì sự ngang bằng chiến lược, và quan trọng hơn nữa là duy trì hòa bình giữa các cường quốc hạt nhân này - một dạng hành động cân bằng thường được mô tả bằng cụm từ “đảm bảo hủy diệt lẫn nhau”.

Mỹ đã làm gì ngay sau khi rút khỏi Hiệp ước 30 năm tuổi? Họ đã xúc tiến các kế hoạch triển khai ở Ba Lan một hệ thống tinh vi chống tên lửa đạn đạo, nằm rất sát biên giới nước Nga. Năm nay [2022], Mỹ đã triển khai cả binh sĩ ở Ba Lan.

Tờ báo Stars & Stripes vào tháng 1/2022 đưa tin: “Hải quân Mỹ gần đây đưa các thủy thủ lên một căn cứ mới – một cơ sở chiến lược ở miền Bắc Ba Lan. Cơ sở này sẽ hậu thuẫn cho hệ thống phòng thủ tên lửa châu Âu của NATO”.

VOV.VN - Cuộc chiến giữa Nga và Ukraine không có dấu hiệu sẽ sớm kết thúc. Cuộc chiến này làm xáo trộn lục địa châu Âu và có thể gây bất ổn hơn nữa cho hệ thống quốc tế. Không những vậy, nguy cơ leo thang thành xung đột hạt nhân đang gia tăng giữa Nga và phương Tây.

Năm 2021, Mikhail Khodarenok – một đại tá Nga về hưu, đã bình luận về ý nghĩa của hệ thống này đối với an ninh Nga và châu Âu.

Khodarenok viết: “Sự phát triển của tổ hợp Aegis Ashore ở Ba Lan làm Nga lo ngại. Đây chính là vấn đề. Hệ thống phóng Mark-41 có thể được điều chỉnh nhanh chóng và tên lửa SM-3 sẽ được thay thế bằng tên lửa hành trình tấn công mặt đất Tomahawk”.

Khodarenok nêu câu hỏi: “Nga sẽ phải làm gì trong tình huống này, khi sự chuyển đổi hệ thống Aegis đặt trên cạn ở Ba Lan có thể tạo ra một mối đe dọa thực sự đối với an ninh quốc gia của Nga”.

Tuy nhiên Nga đã không ngồi yên. Họ đã bận rộn tìm cách ứng phó với các nỗ lực của Mỹ và NATO nhằm xây dựng một hệ thống chống tên lửa đạn đạo ở Đông Âu. Ngay khi Washington rút khỏi Hiệp ước ABM, Moscow đã lập tức bắt tay tìm cách vượt qua hệ thống lá chắn tên lửa của Mỹ. Cuối cùng các nỗ lực của Nga đã đền đáp họ theo nhiều cách mà Mỹ có thể không đoán trước được.

Năm 2018, Tổng thống Nga Putin đọc một thông điệp Liên bang khá phi chính thống, trong đó ông công bố việc Nga chế tạo được tên lửa siêu thanh có thể bay nhanh đến mức “các hệ thống phòng thủ tên lửa bị vô dụng trước chúng”.

Nhà lãnh đạo Nga khi ấy tuyên bố một cách thách thức: “Không ai thực sự muốn nói chuyện với chúng tôi về cốt lõi của vấn đề này [tức hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ ở Đông Âu] và không ai muốn lắng nghe chúng tôi. Giờ thì hãy lắng nghe nhé”.

Mối quan ngại của Moscow về cấu trúc quân sự chiến lược đang được xây dựng ở nước ngoài sát biên giới Nga không phải là bí mật gì cả. Hồi năm 2007, ông Putin đã trình bày diễn văn tại Hội nghị An ninh Munich, trong đó ông nhấn mạnh rằng đối với nước Nga, việc NATO mở rộng “thể hiện một sự khiêu khích nghiêm trọng làm giảm mức độ tin tưởng lẫn nhau”. Ông Putin đã nêu thẳng câu hỏi như sau: “Sự mở rộng đó là nhằm vào ai?”.

Từ đây đã xuất hiện hàng loạt diễn biến trên các lĩnh vực trong quan hệ Mỹ-Nga, cho thấy sự hồi sinh của “Chiến tranh Lạnh”: Thái độ không hài lòng của Mỹ đối với việc Nga can thiệp vào nội chiến Syria để chống IS, rồi đến các cáo buộc Nga can thiệp vào bầu cử Mỹ năm 2016…

Giờ đây khi chiến sự Ukraine đe dọa vượt ra ngoài vòng kiểm soát, đã đến lúc thế giới nguyện cầu cho cuộc Chiến tranh Lạnh mới không chuyển hóa thành chiến tranh nóng giữa Mỹ và Nga./.

Video liên quan

Chủ Đề