Con đỉa sống được bao lâu
Giới thiệu về con đỉa Đỉa là một nhóm sinh vật sống dưới nước thuộc ngành giun đốt (Annelida). Phân loại khoa học thì đỉa thuộc giới Animalia, ngành Annelida, lớp Clitellata, phân lớp Hirudinea (Lamarck, 1818), bộ Arhynchobdellida hoặcRhynchobdellida. Chúng có thân mềm và nhầy phù hợp với việc bơi lội trong nước. Thức ăn của đỉa là máu các loại động vật. Miệng đỉa có giác hút để châm vào con mồi và hút máu. Đỉa tiết ra chất chống đông máu nên vết chích sẽ bị chảy máu liên tục. Đỉacó nhiều loài khác nhau, có loài sống ở cạn, có loài sống ở nước ngọt. Đỉa ưa sống tự do hoặc sống ký sinh tạm thời ở các động vật khác, nhờ vào việc hút máu máu của các vật chủ (blood sucking worms). Đỉa phát triển mạnh trong ao hồ, đầm lầy. Trên thế giới có khoảng 650 loài đỉa. Đỉa là động vật lưỡng tính, trứng phát triển trong kén do đai sinh dục tiết ra. Cấu tạo của cơ quan sinh dục ở đỉa tương tự như ở lớp giun, nhưng phát triển rất chậm, phải tới vài năm mới đạt tới giai đoạn trưởng thành. Tuổi thọ của đỉa có thể trên 20 năm. Cơ thể đỉa dẹt theo chiều lưng bụng và có tới 33 đốt, mỗi đốt lại được chia thành nhiều ngấn đốt phía bên ngoài gọi là vành. Đặc biệt nó có 2 giác dùng để bám chặt vào cơ thể vật chủ: giác trước (anterior sucker) hay giác miệng và giác sau (posterior sucker) hay giác bụng có hậu môn phía trên. Đỉa không có xoang cơ thể, giữa ruột và thành cơ thể chứa đầy nhu mô, chỉ để lại những xoang nhỏ làm nhiệm vụ tuần hoàn, gọi là xoang huyết. Ống tiêu hóa bắt đầu bằng miệng, tiếp sau là hầu. Đỉa bơi rất khỏe, khi bám vào da của người hay động vật, gờ cơ ở khoang miệng sẽ hoạt động như lưỡi cưa và gây nên một vết thương hình hoa thị. Hầu có thành cơ khỏe nên Đây là sinh vật lưỡng tính nhưng lại không thể tự thụ tinh. Đa số đỉa có vòi hút ở cả hai đầu; một vài giống có răng nhưng đa số chỉ có vòi dùng để hút dịch. Nước bọt của đỉa chứa chất gây tê, kháng đông máu và một hóa chất thúc đẩy sự thẩm thấu các thành phần cần thiết qua mô. Trong cơ thể nó có vi khuẩn Aeromonan hydrophila, giúp tiêu hóa máu và tạo ra một kháng sinh để tiêu diệt những vi khuẩn khác có thể gây thối rữa. Đại học Monash ở Australia đã phát hiện một giống đỉa có tên khoa học là Halobdella papillornata. Chúng sống theo bầy, có khả năng chăm sóc con cái cho đến khi trưởng thành, bảo vệ và di chuyển đỉa con đến những nơi an toàn. Đặc tính này vốn chỉ thấy ở động vật có xương sống. Đỉa đã từng tồn tại khắp châu Âu song loài đỉa Hirudo medicinalis bản địa đã bị săn bắt tới mức gần như tuyệt chủng trong thế kỷ XIX. Hiện chúng là một loài được bảo vệ ngang bằng với... tê giác trắng. Nuôi đỉa không quá khó, mặc dù chúng hơi thất thường một chút khi sinh sản. Đỉa không thích sự thay đổi về nhiệt độ hoặc áp suất khí quyển. Giống như họ giun đất, đỉa là loài lưỡng tính. Chúng sinh sản bằng cách tạo ra nhiều kén nhỏ hình trái xoan. Những kén này được thụ tinh bởi một con đỉa khác và bị bỏ lại trên bờ sông hoặc bờ ao chờ tới ngày nở.
Một số “tai nạn” do đỉa gây cho con người qua vài trường hợp tại Việt Nam Trường hợp 1: Đĩa chui vào đường thở Bệnh viện tai mũi họng TƯ tiếp nhận một cháu bé 3 tuổi, dân tộc Mông với triệu chứng ho khạc ra máu và khàn tiếng. Theo mẹ cháu kể, cách đây khoảng 2 tháng cháu theo mẹ ra suối chơi nghịch bị một con tắc te (đỉa suối) bám vào tay. Sau một hồi loay hoay, dằng kéo không được, cháu liền đưa tay lên mồm, dùng răng rứt con đỉa ra khỏi tay mình. Về nhà cháu thỉnh thoảng lên những cơn ho sặc sụa, khó thở và tím môi nhẹ, ho khạc ra một ít máu tươi cùng với nước bọt,có cảm giác buồn buồn trong cổ họng và đôi khi nôn khan. Cháu đã được điều trị bằng kháng sinh tại BV Sơn La nhưng không đỡ, nghi ngờ là dị vật đường thở nên được chuyển tới BV tai mũi họng TƯ. Tại đây, cháu được các thầy thuốc chuyên khoa chẩn đoán là dị vật sống đường thở, được soi gắp dị vật. Đó là một con đỉa suối đen, to, dài khoảng 15cm. Trường hợp 2: Đỉa nằm trong bàng quang bênh nhân Các bác sĩ khoa Tiết niệu – BVĐK tỉnh Thanh Hóa vừa lấy một con đỉa còn sống trong bàng quang của bệnh nhân Lê Văn Bình, 15 tuổi, ở thôn 3, xã Yên Lạc, huyện Yên Định, Thanh Hóa. Em Bình kể lại rằng em cùng một số bạn đi tắm sông ở quê, đến trưa về nhà, Bình thấy đau tức vùng bàng quang và đi tiểu ra máu tươi, lúc 15g30 chiều cùng ngày, gia đình đưa Bình vào BVĐK tỉnh. Qua khám lâm sàng, các bác sĩ nhận thấy bàng quang của em căng; đặt ống thông tiểu thấy có nước tiểu lẫn máu tươi. Khi làm siêu âm, thấy bàng quang của Bình có nhiều máu cục và một vật thể lạ di chuyển trong bàng quang bệnh nhân, nghi là một con đỉa đã chui vào bàng quang qua đầu dương vật của bệnh nhân, các bác sĩ chỉ định phẫu thuật. Ca phẫu thuật thành công, gắp một con đỉa dài khoảng 6cm đang còn sống từ bàng quang của bệnh nhi. Trường hợp 3: Con đỉa sống trong mũi bênh nhân 2 tuần BVĐK Ninh Sơn, Ninh Thuận đã gắp một con đỉa “trâu” dài hơn 20cm từ mũi của bệnh nhân Nguyễn Văn S (34 tuổi, ở xã Lâm Sơn - Ninh Sơn). Theo lời kể của anh S. khoảng nửa tháng trước trên đường đi làm rẫy, anh có cúi mặt xuống con suối nhỏ để uống nước. Ngay tối hôm đó, mũi anh chảy máu và kéo dài nhiều ngày sau đó làm sức khỏe suy yếu hẳn nên phải đến bệnh viện khám và được bác sĩ phát hiện con đỉa trong mũi. Trường hợp 4: Đỉa sống 2 tháng trong thanh khí quản của bệnh nhân BVTƯ Huế cho biết nhóm thực hiện kỹ thuật nội soi của BV tiến hành gắp một con đỉa sống dài 6cm ở dị vật đường thở của một bệnh nhân đã 2 tháng. Bệnh nhân tên Nguyễn N. 37 tuổi, ở thôn Trung An, xã Lộc Trì, Phú Lộc, Huế. Ông N. nhập viện với tình trạng khàn tiếng và ho ra máu tươi dai dẳng. Trước đó, BV Phú Lộc điều trị hơn 10 ngày vẫn không khỏi. bệnh nhân N. cho biết, trong thời gian đó vẫn ăn, uống bình thường; song lúc nào ông cũng cảm giác có vật cản ở cổ. Tiền sử bệnh nhân thường xuyên đi rừng và hay uống nước khe suối, có thể con đỉa đã chui vào thanh khí quản của bệnh nhân bằng con đường này. Vai trò cũng như giá trị của đỉa với y học cổ xưa · Các đơn thuốc viết tay ở châu Âu thời Trung cổ đã minh họa những công dụng của đỉa trong việc điều trị nhiều căn bệnh khác nhau. Nhà độc tài Heraclet đã được thầy thuốc điều trị chứng béo phì bằng những ứng dụng đa năng của đỉa. Nửa sau thế kỷ 19, châu Âu đã chứng kiến những thành tựu khoa học được khám phá từ đỉa. Kỹ nghệ nuôi đỉa dùng trong y học phát triển thành một ngành công nghiệp quan trọng; · Đỉa từng là một đề tài nổi cộm tại Pháp trong năm 1833, khi người ta phải nhập khẩu 4.500.000 con đỉa từ châu Mỹ do “nạn” khan hiếm sinh vật này ở Pháp. Người đề xướng phong trào dùng đỉa một cách rộng rãi trong bệnh viện là bác sĩ Francois Broussai (Pháp). Ông đã tự chữa bệnh cho mình với 15 ứng dụng từ đỉa và sử dụng 50-60 con đỉa cho mỗi ứng dụng. Nhu cầu dùng đỉa mạnh đến nỗi có lúc nó gần như tuyệt chủng tại châu Âu và đã được xếp vào danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng; · Pháp và Hy Lạp - hai nước nuôi đỉa nhiều nhất tại châu Âu thời kỳ đó - thu hoạch khoảng 2.500 con đỉa mỗi ngày. Để cung cấp thức ăn cho chúng, những con ngựa già được dắt xuống đầm lầy để nhận cái chết sau khi đã bị hút cạn máu. · Lịch sử chữa bệnh bằng đỉa bắt nguồn từ thời cổ đại. Các hình vẽ trên Kim tự tháp Ai Cập cho thấy phương thuốc tự nhiên này đã được biết đến từ thế kỷ 15 trước Công nguyên. Một bức họa cổ để lại cũng cho hay hoàng đế La Mã, Galerius đã được chữa bệnh bằng đỉa... Nhưng phải đến đầu thế kỷ 19 (sau Công nguyên) “đỉa liệu pháp” mới là thời thịnh vượng. Vào thời đó nước Pháp sử dụng 20-30 triệu con đỉa trong một năm, nước Anh dùng 7-9 triệu con, nước Nga cũng dùng nhiều. Lúc bấy giờ các bệnh viện, các nhà thuốc đều đặt một lọ sứ bày đỉa trên quầy. Các thầy thuốc thời đó tin rằng đỉa hút hết máu xấu trong cơ thể, để lại máu tốt, nên nhiều khi người bệnh được cho dùng nhiều đỉa hút một lượng máu khá lớn để trị bệnh nhức đầu, béo phì, tăng huyết áp... Trào lưu dùng đỉa vào trị liệu mạnh đến nỗi cạn kiệt nguồn nguyên liệu này. Do vậy ở Nga đã xuất hiện những cơ sở nhân giống và nuôi đỉa. Nhưng vào nửa sau của thế kỷ 19, người ta dần dần không còn quan tâm đến đỉa nữa. Khi đó đã xuất hiện những phương tiện đơn giản trong sử dụng hơn như các lọ thủy tinh hút máu, sau đó là aspirin, nitroglycerin và các dược chất khác. Tại nước Anh, cho đến năm 1910, “đỉa liệu pháp” thực sự đi vào quên lãng, thỉnh thoảng mới bắt gặp ở một số vùng hẻo lánh xa xôi như một giải pháp y học dân gian; · Các bản thảo của Hippocrate thế kỷ 5 trước công nguyên đã ghi chép về việc ly trích máu bằng cách cắt hoặc mở tĩnh mạch nhằm loại bỏ tình trạng thừa dịch trong cơ thể, thay vì bắt người bệnh nhịn ăn, vừa mất nhiều thời gian vừa bất tiện. Đỉa đã sớm tỏ ra là công cụ đắc lực trong việc trích bớt máu của bệnh nhân, giúp cơ thể thoát khỏi tình trạng thừa dịch; · Liệu pháp đỉa đã được sử dụng từ thời Ai Cập cổ đại. Họ sử dụng chúng để tiêu ''máu độc'' vốn được cho là gây nhiều ra nhiều bệnh. Các bác sĩ thời Trung cổ đã sử dụng chúng làm "phụ tá hút máu" trong quá trình phẫu thuật. Tuy nhiên vào những năm 1840, địa không còn được sử dụng do những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh của y học hiện đại. · Đỉa cũng được sử dụng điều trị cho những trường hợp chấn thương. Sau trận Waterloo ở Bỉ năm 1885 (trận chiến quyết định vận mệnh của vua Napoléon), vị tướng Anh Simmons bị một vết thương ở bụng do đạn súng trường. Ông đã được chữa trị bằng cách cho đỉa gây chảy máu ở vết thương. · Sự lạm dụng đỉa trong trị liệu cũng đã gây nhiều tai tiếng. Trong những ngày hấp hối của mình, nhà văn Nga Gogol đã phải chịu đựng sự hoành hành của những con đỉa nằm trong mũi. Nhiều người cho rằng chính đỉa đã làm cho ông chết sớm hơn. Người ta phỏng đoán rằng Tổng thống Mỹ George Washington bị tử vong do lạm dụng đỉa để trích máu. Ông đã dùng đỉa gây chảy máu 4 lần/ngày để điều trị một cơn viêm họng nghiêm trọng. Khả năng phục hồi liệu pháp chữa bệnh bằng con đỉa trong y học hiện đại
Từ năm 1884, người ta đã tìm ra trong nước bọt đỉa có chất hirudin chống đông máu. Hirudin có trong tuyến đơn bào của thực quản đỉa, đó là đa peptid phân tử lượng 9.000. Hirudin tạo phức vững bền với thrombin, vì vậy thrombin mất khả năng chuyển fibrinogen thành fibrin làm cho máu không đông. Bác sĩ R.Sawyer còn cho biết nước bọt của đỉa tiết ra hỗn hợp hóa chất như thuốc gây tê (ngăn chặn cảm giác đau ở người bị nó hút máu, để đỉa không bị gỡ ra) và chất giãn mạch mở rộng mạch máu nơi vết cắn để đỉa hút được nhiều máu; chất chống đông và chất kháng sinh (giữ cho máu khỏi hỏng trong ruột đỉa suốt thời kỳ tiêu hóa có thể lên đến 6 tháng); Đỉa-là dược liệu quý và công cụ chữa bệnh cho người do đặc tính các chất trong cơ thể đĩa Ngoài hirudin đã biết, các nhà khoa học còn tách được 10 chất khác có tiềm lực như dược phẩm. Thí dụ hemetin có khả năng ngăn nhồi máu cơ tim bằng cách làm tan các cục máu đông trong động mạch vành. Hoặc enzym hyaluronidase tiêu hóa lớp kết dính giữa các tế bào, được dùng để tăng tốc độ lan rộng của thuốc tiêm và thuốc gây tê... Đỉa có thể tái sử dụng cho cùng một bệnh nhân sau vài ngày, tuy nhiên những lần sử dụng sau sẽ kém hiệu quả hơn lần đầu. Vì là một “chế phẩm” có liên quan đến máu nên việc sử dụng và tiêu hủy đỉa cần phải tuân thủ một qui trình nghiêm ngặt: - Đỉa được giữ trong tủ lạnh (10-200C) và không cung cấp thức ăn cho chúng - Vùng da nơi đỉa sẽ tiếp xúc phải được rửa thật sạch bằng các dung dịch sát trùng, những vùng chung quanh phải băng cẩn thận, chỉ chừa một vết rạch chừng 1 cm; - Đôi khi để “nhử” đỉa, người ta bôi vào chỗ cần hút máu dung dịch glucose 5% hoặc chích nhẹ để máu rỉ ra. Để đỉa no, cần một khoảng thời gian là 10-20 phút, có khi đến 2 giờ; - Khi đã no, đỉa sẽ tự nhả ra. Không nên gỡ đỉa bằng cách kéo vì sẽ làm nó đứt đoạn, các độc chất trong cơ thể đỉa sẽ gây hại đến vết thương; - Nếu muốn gỡ đỉa ra sớm trước khi chúng no, nên dùng cồn, muối, acid acetic, nước vôi...Cần theo dõi kỹ lưỡng khi trị liệu bằng đỉa; - Mỗi ngày chỉ nên trị liệu 2 - 4 lần, trong tối đa một tuần, số lượng đỉa sử dụng thường dưới 6 con, mỗi lần không quá 20 phút; - Chỉ sử dụng lại đỉa cho cùng một bệnh nhân. Trước khi dùng, đỉa phải được khử trùng bằng cách ngâm trong dung dịch NaCl 5% trong 1 phút để nhả hết máu cũ; - Trong ống tiêu hóa của đỉa có vi khuẩn Aeromonas hydrophilia, dễ gây phản ứng nhiễm trùng - Nếu dùng không đúng phương pháp, đỉa có thể nhả máu cũ chứa vi khuẩn này vào vết cắn.
Tài liệu tham khảo 1. Vũ Hương Văn. Sức khỏe và đời sống số ra thứ 7, ngày 26_01_2008. Thông tin y dược. Con đỉa-nguồn dược liệu tương lai. 2. Trích tư liệu và hình ảnh từ một số tạp chí Passion 2007; Express India, 2007; Le Monde, 2006; Reuters, 2008; Telegraph, Times of India, 2008, báo Sức khỏe và đời sống, Lao động, báo Tiền Phong. Page 2
Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên ngành của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn thuộc Bộ Y tế về các bệnh ký sinh trùng và các bệnh do véc tơ truyền, đặc biệt là các bệnh ký sinh trùng mới nổi như sán lá gan lớn, sán lá gan nhỏ, giun lươn, giun đũa chó và các bệnh thông thường khác; khám bảo hiểm y tế và xét nghiệm chẩn đoán bệnh bằng các phương tiện kỹ thuật cao như sinh hóa, huyết học, miễn dịch (ELISA), sinh học phân tử hoặc chẩn đoán hình ảnh bằng nội soi tiêu hóa, siêu âm màu… CƠ CẤU NHÂN SỰ Tổng số cán bộ: 37 viên chức. Trong đó: Bác sĩ chuyên khoa II: 01; Bác sĩ chuyên khoa I: 01; Thạc sỹ: 05; đại học: 06; cao đẳng: 02; trung cấp: 22 Các tổ trực thuộc: Tổ Khám bệnh; Tổ Sinh hóa-Huyết học; Tổ Dược; Tổ Chẩn đoán hình ảnh; Tổ Vi ký sinh-Miễn dịch
CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA PHÒNG KHÁM - Khám chữa bệnh: + Tiếp nhận, khám và điều trị các bệnh về ký sinh trùng, côn trùng và các bệnh khác. + Xét nghiệm chẩn đoán huyết học, sinh học, miễn dịch, vi sinh và các xét nghiệm kỹ thuật cao. + Chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, nội soi. + Theo dõi và điều trị. - Tham gia khám và chữa bệnh bảo hiểm y tế + Khám và chuyển Viện đúng tuyến. + Khám và điều trị bệnh nhân vượt tuyến, trái tuyến. - Tham gia công tác đào tạo. + Tham gia giảng dạy. + Hướng dẫn học sinh thực tập. - Công tác nghiên cứu khoa học: + Tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học tại phòng khám. + Tham gia các đề tài thực địa. - Công tác phối hợp cùng các khoa phòng trong và ngoài cơ quan: + Phối hợp các đề tài nghiên cứu khoa học trong và ngoài cơ quan. + Phối hợp cùng các khoa, phòng thực hiện công tác chuyên môn cũng như phong trào đoàn thể do cơ quan đề ra. + Tham gia công tác tăng thu nhập đời sống của cơ quan. - Công tác giám sát chỉ đạo, thống kê báo cáo: + Cập nhật số liệu hàng tháng, hàng quý báo cáo về lãnh đạo các khoa phòng chức năng, để có kế hoạch chỉ đạo kịp thời chuyển biến tình hình bệnh tật trong khu vực. + Tham gia giám sát tình hình dịch bệnh tại phòng khám và ở thực địa.
Địa chỉ liên hệ: Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn 611B-Nguyễn Thái Học-TP. Quy Nhơn, số điện thoại: 056.3646166, FAX: 056.3846755, di động: 0905168199, Email: Thời gian: tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật) Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn Hệ thống máy phân tích sinh hóa máu Hệ thống chẩn đoán dị nguyên Immulite XP Hệ thống Xquang kỹ thuật số DXR Hệ thống siêu âm kỹ thuật số MỘT SỐ THÀNH TÍCH CỦA PHÒNG + GIAI ĐOẠN 2005-2011 - Bằng khen của Bộ Y tế năm 2007 theo quyết định số 1885/QĐ-BYT ngày 28/05/2008 - Bằng khen của Bộ Y tế năm 2008 theo quyết định số 610/QĐ-BYT ngày 20/02/2009 - Bằng khen của Bộ Y tế năm 2009 theo quyết định số 2159/QĐ-BYT ngày 21/06/2010 - Bằng khen của Bộ Y tế năm 2010 theo quyết định số 2724/QĐ-BYT ngày 29/07/2011 - Bằng khen của Bộ Y tế năm 2012 (Quyết định số 781/QĐ-BYT ngày 05/03/2013) - Bằng khen của Bộ Y tế năm 2013 (Quyết định số 953/QĐ-BYT ngày 20/03/2014) - Bằng khen của Bộ Y tế năm 2015 (Quyết định số 2414/QĐ-BYT ngày 08/6/2016) - Bộ Y tế công nhận danh hiệu tập thể lao động xuất sắc các năm từ năm 2013 đến 2017. Page 3
Nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Viện (08/03/1977 – 08/03/2012), Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn tổ chức Lễ Kỷ niệm 35 năm thành lập Viện và đón nhận Huân chương độc lập hạng II; Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn trân trọng kính mời các đơn vị thuộc hệ y tế dự phòng khu vực miền Trung-Tây Nguyên, các viện nghiên cứu và các trường đại học y dược đã có công trình nghiên cứu khoa học từ năm 2006 đến năm 2010, tổng hợp và biên soạn lại và gởi bài Ban tổ chức theo địa chỉ: Phòng Quản lý Khoa học-công nghệ, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn số 611B-Nguyễn Thái Học-Tp. Quy Nhơn-tỉnh Bình Định. Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn rất mong nhận được các bài báo cáo của các nhà khoa học, của các đơn vị trong toàn quốc. Ban tổ chức sẽ lựa chọn cho đăng tải trên tạp chí Y học thực hành. Để tổng hợp, sắp xếp và kịp thời in ấn tài liệu, kính mong các nhà khoa học, các đơn vị gửi bài viết tới Viện qua địa chỉ email: hoặc và trước ngày 30/10/2011. (Bài gửi bằng file và bản in trên khổ giấy A4 không quá 7 trang). (Quy định về nội dung và trình bày bài báo cáo nghiên cứu khoa học (download tại đây) Các chi tiết khác xin liên hệ: CN. Nguyễn Thị Minh Hiền- Phòng Quản lý Khoa học-công nghệ, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn. Điện thoại: 056.3847116 (208) và DD: 0914139929 hoặc TS. Hồ Văn Hoàng – Phó Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn. Điện thoại: 056.3746040 và DD: 0914004629. Tệp đính kèm: Thong_bao_goi_bai_Tap_chi_YHTH_2011.pdf Page 4Nhằm giảm thiểu tác động của dịch COVID-19 đối với chương trình sốt rét, từ ngày 24-26/3/2021 tại Khách sạn Hải Âu - Thành phố Quy Nhơn, Viện Sốt rét -Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương phối hợp với Tổ chức hành động vì sức khỏe và đói nghèo (HPA-Health Poverty Action) tổ chức lớp tập huấn cho đội ngũ y tế hoạt động trong lĩnh vực sốt rét của 12 tỉnh, thành khu vực miền Trung-Tây Nguyên về nâng cao năng lực cán bộ y tế cấp tỉnh về Quản lý các dịch vụ sốt rét thiết yếu trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19. Page 5Nhằm cập nhật tình hình bệnh sốt rétở khu vực miền Trung – Tây Nguyên, chia sẻ những khó khăn, thách thức trong công tác phòng chống và loại trừ sốt rét,ngày 17/5/2022, đoàn công tác phối hợp giữa Viện Sốt rét - KST- CT Quy Nhơn và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam đã đến thăm và làm việc tạiTrung tâm Y tế huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Page 6Theo các nhà phân tích tại Transparency Market Research (TMR), thị trường triclabendazole toàn cầu được ước tính sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm CAGR (Compounded Annual Growth rate) là 4,1% trong giai đoạn dự báo, từ năm 2021 đến năm 2031. Page 7Thông báo đăng bài trên Tạp chí y học thực hành nhân Kỷ niệm 35 năm thành lập Viện (12/12/2011)Nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Viện (08/03/1977 – 08/03/2012), Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn tổ chức Lễ Kỷ niệm 35 năm thành lập Viện và đón nhận Huân chương độc lập hạng II; Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn trân trọng kính mời các đơn vị thuộc hệ y tế dự phòng khu vực miền Trung-Tây Nguyên, Page 8THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021. Page 9Ban chấp hành Đảng bộ Viện lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2020-2025 gồm 09 đồng chí như sau:.Đ/c Hồ Văn Hoàng, Bí thư Đảng ủy - Viện trưởng;.Đ/c Võ Trí Dũng, Phó bí thư Đảng bộ;.Đ/c Đào Ngọc Trung, Ủy viên thường vụ, Chủ nhiệm UBKT Đảng;Đ/c Huỳnh Hồng Quang, Ủy viên Ban chấp hành;Đ/c Nguyễn Xuân Thiện, Ủy viên Ban chấp hành;Đ/c Hồ Đắc Thoàn, Ủy viên Ban chấp hành;.Đ/c Bùi Văn Tuấn, Ủy viên Ban chấp hành; Đ/c Phạm Thị Trà, Ủy viên Ban chấp hành;Đ/c Đào Trịnh Khánh Ly, Ủy viên Ban chấp hành Page 10Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn là Viện khu vực, là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ y tế, được thành lập theo Quyết định 259/BYT/QĐ, ngày 8/3/1977 của Bộ trưởng Bộ Y tế và được khẳng định lại tại Quyết định số 246/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ. Viện có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng theo quy định của pháp luật, có trụ sở làm việc đặt tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Page 11TTND.BSCKII.Bùi Đình Bái, Nguyên Phân Viện trưởng Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn thời kỳ 1977-1994 Page 12Tham mưu giúp Viện trưởng về công tác tổ chức, cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ; Triển khai thực hiện các chế độ chính sách đối với công chức, viên chức và nhân viên hợp đồng.Tham mưu giúp Viện trưởng thực hiện quản lý về cơ sở vật chất, thiết bị, công tác hành chính, văn thư, lưu trữ và lễ tân, khánh tiết. Page 13-Huân chương Độc lập hạng Ba 2004 (Quyết định số 563/QĐ-CTN ngày 26/08/2004) Page 14Các ca nhiễm đơn dòng chiếm tỷ lệ cao với 75% P.falciparum, 14% Plasmodium vivax và 9% nhiễm phối hợp P.falciparum/P.vivax, cùng với ít hơn 1% Plasmodium malariae cũng được xác định. Đối với msp1, họ alen MAD20 chiếm phổ biến nhất (99%), sau đó là K1 (46%), và không có mẫu nào dương tính với RO33 (0%). Đối với msp2, họ alen 3D7 chiếm ưu thế (97%), tiếp sau đó là FC27 (10%). Giá trị nhiễm đa alen (multiplicity of infection) của msp1 và msp2 lần lượt là 2,6 và 1,1, và giá trị nhiễm đa alen trung bình chung là 3,7, với tổng số các alen phạm vi từ 1 đến 7. Page 15Các nhà nghiên cứu đã xác định hai chỉ dấu sinh học có thể giúp chẩn đoán bệnh tim làm tăng nguy cơ đột quỵ. Rung nhĩ (Atrial fibrillation -AF) là rối loạn nhịp tim phổ biến nhất, ảnh hưởng đến khoảng 1,6 triệu người ở Anh, nhưng nó thường chỉ được phát hiện sau khi ai đó bị đột quỵ. Quỹ Tim mạch Anh cho biết nghiên cứu này có thể mở đường cho việc phát hiện tốt hơn những người bị AF và điều trị đúng đích. Page 16Nguyen Thi L, 31 tuổi, Nghệ An, 091320…:Kính thưa bác sỹ, cháu năm nay 31 tuổi, bị bệnh viêm da tiết bã (được chẩn đoán ở chuyên khoa da liễu) thường xuyên gây ngứa, bong tró vảy da nhiều. Da mặt thỉnh thoảng có nhiều đốm đỏ dọc theo hai bên cánh mũi, trán giữa hai lông mày và gò má. Rất khó chịu và thường xuyên bị e ngại giao tiếp vì chứng bệnh này. Xin bác sỹ cho cháu cáchnào chữa trị viêm da tiết bã nhờn hiệu quả. Cháu cảm ơn rất nhiều ah! Page 17Trần Thị Hồng G., 47 tuổi, TP. Nha Trang, Khánh Hòa, honggiang125@...: Thưa bác sỹ của Viện sốt rét, em bị hội chứng ruột kích thích đã rất lâu năm và không có dùng các chất kích thích bao giờ. Em đã điều trị hai năm nay nhưng chỉ thuyên giảm mà không hết hẳng, em rất khổ sở. Gần đây, em có nghe nói đến liệu pháp tâm lý giúp kiểm soát hội chứng ruột kích thích, em muốn áp dụng nhưng chưa rõ như thế nào. Kính mong bác sỹ cho thông tin. Chân thành cảm ơn! Page 18Khi sản phụ mang thai đến các cơ sở y tế từ tuyến xã, phường thị trấn trở lên sinh đẻ. Để bảo đảm mẹ tròn con vuông, việc đánh giá nhanh tình hình và các yếu tố tiên lượng cho sự sinh nở rất quan trọng nhằm dự báo trước thông qua quá trình hỏi bệnh, thăm khám, theo dõi và chăm sóc sản phụ một cách đầy đủ. Vì vậy cần quan tâm đến vấn đề này. Page 19Theo thông tin từ WASHINGTON, tập thể dục và chế độ ăn uống là chìa khóa để có một cuộc sống khỏe mạnh hơn, như nhiều nghiên cứu cho thấy, nhưng một chuyên gia về tim cũng khuyến nghị một cái gì đó khác hơn. "Một, hai, ba - xoay tròn." Page 20Theo thông tin từ WASHINGTON, tập thể dục và chế độ ăn uống là chìa khóa để có một cuộc sống khỏe mạnh hơn, như nhiều nghiên cứu cho thấy, nhưng một chuyên gia về tim cũng khuyến nghị một cái gì đó khác hơn. "Một, hai, ba - xoay tròn." Page 21Công nghệ nano (Nanotechnology) là một công nghệ mang tính khoa học, công nghệ kiến thiết và mang tính thiết kế chuyên sâu tiến hành trên quy mô nano (nanoscale) với cấp độ siêu khoảng 1-100 nanometers. Khoa học nano (Nanoscience) và công nghệ nano (Nanotechnology) là nghiên cứu và ứng dụng các vật rất nhỏ và có thể sử dụng xuyên suốt các ngành khoa học như hóa học, sinh học, vật lý, khoa học vật liệu và công nghệ. Page 22Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc về giải quyết vấn đề rác thải nhựa, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị về giảm thiểu chất thải nhựa trong ngành y tế. Mặc khác,để triển khai sâu rộng tới tất cả các cơ quan, đơn vị trong ngành y tế trên toàn quốc nhằm chung tay hành động giải quyết vấn đề rác thải nhựa của quốc gia, Bộ Y tế xây dựng Kế hoạch tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai giảm thiểu chất thải nhựa trong ngành y tế Page 23Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc về giải quyết vấn đề rác thải nhựa, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị về giảm thiểu chất thải nhựa trong ngành y tế. Mặc khác,để triển khai sâu rộng tới tất cả các cơ quan, đơn vị trong ngành y tế trên toàn quốc nhằm chung tay hành động giải quyết vấn đề rác thải nhựa của quốc gia, Bộ Y tế xây dựng Kế hoạch tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai giảm thiểu chất thải nhựa trong ngành y tế Page 24Mục tiêu chung:Khống chế tỷ lệ người dân mắc bệnh sốt rét dưới 0,15/1.000; tỷ lệ người dân chết do bị bệnh sốt rét dưới 0,02/100.000; không còn tỉnh nào trong giai đoạn phòng chống bệnh sốt rét tích cực; 40 tỉnh trong giai đoạn đề phòng bệnh sốt rét quay trở lại; 15 tỉnh trong giai đoạn loại trừ bệnh sốt rét và 8 tỉnh trong giai đoạn tiền loại trừ bệnh sốt rét vào năm 2020. Page 25Mặc dù đã có những bằng chứng cho thấy những phụ nữ có thai nằm trong nhóm nguy cơ cao của căn bệnh này nhưng nhiều người vẫn chưa tiêm vắc-xin.COVID-19 có thể tấn công nhanh và mạnh – đặc biệt là khi bạn đang mang thai. Alison Cahill, một chuyên gia y học bà mẹ-thai nhi tại Trường Y tế Dell tại Austin, Texas, nhớ lại như in một bệnh nhân từ làn sóng dịch đầu tiên của đại dịch đã mang bầu 26 tuần và thức dậy vào một buổi sáng với một cơn ho. Page 26Trong năm 2017, ước tính có 3,1 tỷ USD đã được đầu tư vào các nỗ lực PC & LTSR do chính phủ các nước có lưu hành sốt rét (SRLH) và các đối tác quốc tế một số tiền cao hơn con số được báo cáo trong năm 2016. Gần ba phần tư (2,2 tỷ USD) đầu tư vào năm 2017 được dành cho khu vực châu Phi, tiếp theo là khu vực Đông Nam Á (300 triệu USD), châu Mỹ (200 triệu USD) và Đông Địa Trung Hải và Tây Thái Bình Dương (mỗi khu vực 100 triệu USD). |