Thời lê sơ, kì thi hội được tổ chức ở đâu?

Chúc bạn học tốt!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

1, Chế độ thi cử thời Lê Sơ:

– Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học , phép chọn người có học thì thi cử là đầu, …

– Trong thời kì Hồng Đức , cách lấy đỗ đạt rộng rãi, cách chọn người công bằng, trong nước không để sót nhân tài, triều đình không dùng nhầm người kém.

2, 

– Nhà nước thời Lê Sơ đã tổ chức 26 khoa thì tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên.

– Cho dựng bia tiến sĩ tại Văn Miếu.

3, 

Thành tựu khoa học:

-Y học: Bản thảo thực vật toát yếu, Bảo anh lương phương.

4, 

Về bộ máy nhà nước: 

Thời Trần: Có thêm chế độ Thái Thượng Hoàng.

Thời Lê Sơ: Vua là người đứng đầu và nắm giữ mọi quyền hành. Giúp việc cho vua gồm 6 bộ(Lại, Hộ, Lễ, Bình, Hình, Thư) và các cơ quan chuyên môn(Quốc Sử Viện, Hàn Lâm Viện, Ngự Sử Đại)

C1. A- Thời Lê sơ (1428- 1527) tổ chức được 26 khoa thi Tiến sĩ

C2. D- Thời Lê sơ, văn học chữ Nôm có một vị trí quan trọng so với văn học chữ Hán để thấy rằng chữ Nôm dần khẳng định giá trị, khả năng, vai trò trong nền văn học nước nhà.

C3. B - Đến thời vua Lê Thánh Tông, đô ti phụ trách quân sự, an ninh.

C4. C- Nước Đại Việt dưới thời Lê Thánh Tông được chia làm 3 ti (đô ti, hiến ti, thừa ti)

C5. Để khuyến khích phát triển nông nghiệp, nhà Lê ban hành chính sách

C6. A -  Khuyến khích khai hoang mở mang diện tích.

C7. - Dưới thời nhà Lê, ngành nghề thủ công tập trung nhiều nhất ở Thăng Long

C8. C - Quốc gia phát triển ở Đông Nam Á.

C9. - Thanh tra quan lại

C10. A-  13 đạo thừa tuyên

C11. A -  Tể tướng, Đại hành khiển

Bộ máy nhà nước những thời đại trước bao giờ cũng là những tri thức được tìm hiểu rất nhiều trên thực tế hiện nay. Những trương trình dạy học cũng đã đưa vào để giảng dạy rất kỹ trong bộ môn Lịch sử tuy nhiên sau khi thời gian trôi qua không phải ai cũng nhớ được.

Chính vì thế, trong bài viết hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp tới quý bạn đọc một số nội dung liên quan đến vấn đề: Tổ chức Bộ máy nhà nước thời lê Sơ.

Đôi nét về Nhà Lê Sơ

Nhà Lê sơ hay Lê sơ Triều, đôi khi còn được gọi là nhà Hậu Lê là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê. Đây là thời kỳ mà chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền trong lịch sử Việt Nam lần đầu tiên đạt đến đỉnh cao của sự phát triển cũng như suy thoái của nó. Nhà Lê sơ được thành lập sau khi lê Lợi phát động Khởi nghĩa Lam Sơn đánh bại nhà Minh. Ông đổi tên Giao Chỉ, vốn tồn tại trong thời gian nội thuộc nhà Minh, trở về Đại Việt, quốc hiệu có từ thời Lý Thánh Tông.

Thời lê sơ, kì thi hội được tổ chức ở đâu?

Thứ nhất: Chính quyền địa phương

– Năm 1428, Lê Lợi khi lên ngôi lấy niên hiệu là Thuận Thiên, chia đất nước thành 05 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc (đều ở vùng Bắc bộ) và Hải Tây (từ Thanh Hóa trở vào). Dưới đạo là trấn, dưới trấn là lộ, dưới lộ là châu và huyện. Cấp hành chính địa phương thấp nhất là xã. Xã lại chia làm đại xã, trung xã và tiểu xã tùy theo số dân.

– Từ nam 1471 mở rộng đất đai phía nam, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam. Tuy địa giới có một số điều chỉnh và riêng Sơn Tây không còn là đơn vị cấp cao nhất, một nửa trong số các đơn vị hành chính lớn nhất thời kỳ này (hải Dương, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, nghệ An, Quảng Nam) có tên gọi được dùng làm tên các đơn vị hành chính lớn nhất của Việt Nam hiện nay.

– Bộ máy chính quyền của mỗi đạo thừa tuyên gồm 03 lỵ: Đô tổng binh sứ ty (phụ trách quân sự), thừa tuyên ty (phụ trách các việc dân sự), hiển sát ty (phụ trách các việc thanh tra, giám sát).

– Các quan địa phương được ban ngạch cao nhất là chánh tứ phẩm, hưởng lương 48 quan mỗi năm. Tổng số quan lại địa phương thời Hồng Dức là 2.615 người.

Thứ hai: Chính quyền trung ương

– Bộ máy chính quyền thời Lê Thái Tổ cơ bản theo mô hình thời Trần. Giúp việc trực tiếp cho hoàng đế là trung khu gồmc ác quan tả, hữu tướng quốc, tam thái (thái sư, thái úy, thái bảo), tam thiếu (thiếu sư, thiếu íu, thiếu bảo), tam tư (tư mã, tư không, tư khấu), bộc xạ. Dưới trung khu là hai ban văn, võ.

– Đứng đầu ban văn là quan đại hành khiển. Các bộ, ngành thuộc văn ban là bộ Lại, bộ Lễ, khu mật viện, hàn lâm viện, ngũ hình viện, ngự sử đài, quốc tử giám, quốc sử viên, nội thị sảnh và các cơ quan khác gọi là quán, cục hay ty. Đứng đầu các bộ là quan thượng thư.

– Đứng đầu ban võ là đại tổng quan. Tiếp đến là các chức đại đô đốc, đô tổng quản, tổng quản, tổng bình, tư mã. Ban võ gồm 06 quân điện tiền và 05 quân thiết đột. Tổng số quan lại thời Hồng Đức là 5.370 người, trong đó quan lại trong triều 2.755 người.

– Lục tự:

+ Thượng bảo tự: Cơ quan coi việc đóng ấn vào quyển thi của các thí sinh Hội.

+ Hồng lô tự: Tổ chức việc xướng danh những người đỗ trong kỳ thi đình; lo an táng đại thần qua đời và tiếp đón sứ đoàn.

+ Thái bộc tư: Cơ quan phụ trách xe ngựa của vua và coi sóc ngựa của hoàng tộc.

+ Quang lộc tự: Phụ trách hậu cần đồ lễ trong các buổi lễ của triều đình.

+ Thái thường tự: Cơ quan phụ trách lễ nghi, âm nhạc cung đình.

+ Đại lý tự: Cơ quan phụ trách hình án: Xét xong án chuyển sang Bộ Hình để têu lên vua quyết định.

– Lục bộ:

Mỗi bộ có một viên Thượng thư và 02 Tả bộ thị lang và cơ quan thường trực là Vụ tư sảnh đứng đầu. Giám sát Lục bộ là Lục khoa tương ứng, gồm Lại Khoa, Lễ khoa, Hộ khoa, Bình khoa, Hình khao, Công khoa. Đứng đầu các khoa là Đô cấp sự trung và Cấp sự trung. Giúp việc cho Lục bộ là Lục tư.

+ Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.

+ Hình bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo.

+ Binh bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp.

+ Hộ bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng lộc của quan, binh.

+ Lễ bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người trông coi giữ đình, chùa, miếu mạo.

+ Lại bộ: Trông coi việc tuyên bố, thăng thưởng và thăng quan tước.

– Các cơ quan chuyên môn:

+ Khuyến nông sứ và Hà đê sứ: Hai cơ quan coi việc nông nghiệp và trông nom về thủy lợi đê điều.

+ Quốc sử viện: Cơ quan chép sử của triều đình. Nhà vua nói gì, làm gì, sử quan đều phải ghi chép cẩn thận và trung thực. Đứng đầu là Quốc sử việc Tu soạn, trật chánh bát phẩm.

+ Quốc tử giám: Cơ quan giáo dục cao nhất trong cả nước. Đây là trường đại học của triều đình có nhiệm vụ đào tạo nhân tài cho quốc gia. Đứng đầu là là Tế tửu, trật chánh tứ phẩm.

+ Thông Chính ty: Cơ quan phụ trách chuyền đạt giấy tờ của triều đình xuống và nhận đơn từ của nhân dân tâu lên vua. Đứng đầu là thông chính sứ, trật Tòng tứ phẩm.

Như vậy, Tổ chức bộ máy Nhà nước Lê sơ đã được chúng tôi trình bày chi tiết trong bài viết phía trên. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã giới thiệu đôi nét về nhà nước Lê sơ. Mong rằng những nội dung trên sẽ giúp ích tới quý bạn đọc.

Tóm tắt mục 1. Tình hình giáo dục và khoa cử thời Lê sơ

Thi Hội là một Khoa thi Nho học thường lệ 3 năm tổ chức 1 lần tại Kinh đô để tuyển chọn người có tài, học rộng. Người đỗ cả bốn kỳ của khoa thi Hội là đậu đại khoa (sẽ vào tiếp Đình thí xếp hạng Tiến sĩ), đậu cả ba kỳ của khoa thi Hội là đậu Tam trường thi Hội. Vì khoa thi Hội khó nên Tam trường thi Hội và Tiến sĩ đều có thể được bổ nhiệm chức vụ quan trọng. Người đỗ đầu các vị đại khoa của khoa thi Hội gọi là Hội nguyên.

Thời lê sơ, kì thi hội được tổ chức ở đâu?

Hình chụp người xem bảng danh sách những người thi đỗ

Từ đời Lê Thánh Tông các khoa thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất (dựa theo quy định thi cử của Trung Quốc). Sau khi thí sinh đỗ khoa thi Hương thì năm sau mới được dự thi khoa thi Hội. Thi đỗ khoa thi Hội rồi mới được phép dự thi Đình.

Theo quy định từ năm 1434, thi Hội tương tự như thi Hương cũng có 4 kỳ.

  • Kỳ I: kinh nghĩa, thư nghĩa;
  • Kỳ II: chiếu, chế, biểu;
  • Kỳ III: thơ phú;
  • Kỳ IV: văn sách.

Khoa thi này được gọi là "Hội thi Cống sĩ" (tức là người đã đỗ thi Hương tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội.

Trước năm 1442 thí sinh đỗ cả bốn kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội. Nếu không tiếp tục thi Đình thì vẫn chỉ có học vị Cống sĩ. Chỉ sau khi thi Đình, người trúng cách thi Hội mới được xếp loại Tiến sĩ và mới được công nhận là có học vị Tiến sĩ. Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ (tức Thái học sinh - tên dân gian là ông Nghè).

Như vậy, đỗ thi Hội tức là Tiến sĩ Nho học (song phải thi Đình để xếp loại). Ở Việt Nam cần tránh lầm lẫn Tiến sĩ Nho học (cả nước toàn bộ thời phong kiến khoa bảng kể từ 1075 đến 1919 tính cả Tiến sĩ và Phó bảng-Ất Tiến sĩ mới có khoảng 3000 người có học vị này) với Tiến sĩ (năm 2016, Việt Nam có hơn 24000 người có học vị này).

Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó bảng.

Nội dung

Dưới thời Pháp thuộc chính quyền Bảo hộ xúc tiến tìm cách cải tổ lề lối khoa cử. Thi Hội vào thập niên 1910 như khoa Quý Sửu năm 1913 thì thi Hội có bốn phần, gọi là trường nhất, trường nhì, trường ba và trường tư.[1]

  1. Trường nhất thí sinh phải làm một bài văn sách
  2. Trường nhì là một bài luận bằng chữ Hán
  3. Trường ba là một bài luận bằng Quốc ngữ
  4. Trường tư có ba thành phần: một bài chiếu, một bài chế và một bài biểu. Chiếu là mệnh lệnh của vua. Chế là pháp luật vua ban; và biểu là lời tâu của quan dưới báo lên vua.[1]

Thí sinh phải đủ điểm đỗ trường nhất và trường nhì, tức có tên yết trên bảng thì mới vào thi trường ba và trường tư.[1]

Nguyễn Dữ (? - ?): thi Hội đỗ Tam trường thời Hậu Lê làm quan Tri huyện Thanh Tuyền (nay là huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Tác giả Truyền kỳ mạn lục

Đỗ Thế Giai (1709 - 1766): đỗ Tam trường thi Hội lúc 28 tuổi (1736) làm quan đến Trung Quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Thự phủ sự Đại tư mã

Đinh Phiên (1764 - 1833): đỗ Tam trường thi Hội lúc 30 tuổi (1783) làm đến Quốc sử quán Toản tu triều Lê Trịnh. Triều Nguyễn vời ra giữ chức Thị trung trực Học sĩ

Thi Hội ở Trung Quốc cũng tương tự. Khoa thi Hội diễn ra vào mùa xuân năm kế tiếp của khoa thi Hương, tức các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất, do bộ Lễ tiến hành, nên còn gọi là "lễ vi", "xuân vi". Kỳ thi này cũng diễn ra qua 3 lần (tam trường), mỗi lần 3 ngày. Người đỗ đầu cũng gọi là Hội nguyên.

  • Khoa bảng
  • Thi Hương
  • Thi Đình
  • Hội nguyên

http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/viet-nam-co-hon-24-000-tien-si-3393238.html

  1. ^ a b c Hà Ngại. Tiếng tiêu đồng, hồi ký một vị quan triều Nguyễn. Thành phố HCM: Nhà xuất bản Trẻ, 2014. Tr 135-41.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thi_Hội&oldid=66324304”