Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

Kiến thức phổ thông
Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

30/09/2019 Gần 60% cây cối châu Âu bị đe dọa tuyệt chủng

Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế vừa lên tiếng báo động về tình trạng cây cối châu Âu bị áp...

Khám phá
Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

18/09/2019 Loài cá sư tử cực độc đang xâm lấn Đại Tây Dương

Một trong những loài xâm lấn khét tiếng - cá sư tử, được biết đến với sự phàm ăn và có thể ăn các...

Khám phá
Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

23/05/2019 Những loài động vật, thực vật ngoại lai xâm hại nguy hiểm tại Việt Nam

Các loài xâm lấn, còn được gọi là loài ngoại lai xâm hại hoặc chỉ đơn giản là giống nhập ngoại,...

Khám phá
Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

11/04/2019 Trăn Miến Điện đe dọa "nuốt chửng" Florida

Được nhập khẩu vào Mỹ để làm thú nuôi, nhưng trăn Miến Điện sinh sôi nhanh chóng, trở thành loài...

Khám phá
Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

28/03/2017 Rợn người loài sán sên khạc nhổ ăn mòn được da người

Không chỉ là loài xâm lấn đứng top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất trên thế giới, sán ốc sên còn gây...

Khám phá
Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

18/07/2015 Úc sẽ diệt 2 triệu con mèo hoang trong 5 năm tới

Úc vừa lên kế hoạch đến năm 2020 sẽ tiêu diệt 2 triệu con mèo hoang. Mèo hoang ở Úc được xem...

Những cơ hội và mối đe dọa lớn nhất đối với các nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học trong năm tới là gì? Gần 20 nhà khoa học, chuyên gia bảo tồn và nhà phân tích tương lai gần đây do nhà sinh học bảo tồn William Sutherland thuộc Đại học Cambridge lĩnh xướng đã cùng nhau trả lời câu hỏi đó như là một phần của việc rà soát, đánh giá hàng năm.

Nhóm đã thu hẹp danh sách gồm 89 vấn đề thành 15 xu hướng mới nổi có tiềm năng mạnh mẽ để mang lại lợi ích hoặc gây hại cho sinh vật nhưng chưa được hầu hết các nhà bảo tồn chú ý. Dưới đây là những lựa chọn hàng đầu của họ, được công bố trên tạp chí Trends in Ecology & Evolution.

Cellulose: tốt hơn và tệ hơn

Cellulose – một trong những thành phần chính của gỗ – đang được chứng minh là rất hữu ích khi được chia thành các mảnh có kích thước nano. Khi các nhà phát minh tìm ra cách sử dụng mới cho vật liệu đa năng này, nhu cầu tăng tới 18% mỗi năm. Việc sử dụng nano xơ làm bao bì và xây dựng có thể giúp loại bỏ CO2 (tác nhân chính gây ra biến đổi khí hậu) khỏi khí quyển và giảm nhu cầu về nhựa gây hại cho môi trường. Nhưng việc này cũng có thể tăng áp lực biến các khu rừng giàu đa dạng sinh học thành rừng trồng, mặt khác cũng phá vỡ sinh cảnh.

Rừng làm nhiên liệu

Liên minh châu Âu đã chấp nhận một loại gỗ được phân loại theo chỉ thị (tiêu chuẩn riêng của EU) là nguồn năng lượng tái tạo và có kế hoạch tăng đáng kể tỷ lệ hỗn hợp năng lượng tái tạo vào năm 2030. Trớ trêu thay, những động thái khuyến khích này bị cả hai quan điểm biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học coi là bất lợi: Việc nhập khẩu gỗ từ các quốc gia như Mỹ và Canada vào EU đã tăng lên trong những năm gần đây và có những lo ngại về phá vỡ sinh cảnh rừng ở châu Âu. Một vụ kiện chống lại việc phân loại đang diễn ra nhưng vấn đề có thể trở nên tồi tệ hơn nếu các quốc gia bên ngoài EU noi theo vụ kiện.

Nụ hoa tốt hơn cho ong?

Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

Trồng hoa hướng dương ồ ạt là tốt hay xấu cho quần thể ong?

Ong và các loài thụ phấn khác đã gặp rắc rối lớn trong thời gian gần đây từ việc thay đổi mục đích sử dụng đất và các hiểm họa như thuốc trừ sâu, bệnh dịch khiến quần thể suy giảm. Nghiên cứu gần đây ở Mỹ chỉ ra rằng phấn hoa hướng dương và các loài liên đới, mặc dù không có giá trị dinh dưỡng như phấn hoa từ các cây khác, dường như làm giảm mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng đường ruột và làm giảm mức độ thành công sinh sản ở ong nghệ. Nếu nghiên cứu này dẫn đến việc trồng hoa hướng dương ồ ạt thì nó sẽ ảnh hưởng xấu đến những loài ong hoang dã khác vốn phụ thuộc vào các loại cây giàu dinh dưỡng hơn hoặc khiến tương tác ký sinh trùng nở rộ.

Rắc rối mang tên bọ ve

Bọ ve châu Á du nhập vào Mỹ năm 2017 mang theo một vị khách không được hoan nghênh nhất: một loại vi khuẩn giết chết gia súc. Bọ ve cùng với người bạn đồng hành chết chóc chịu được đủ loại điều kiện và có khả năng lây lan dọc theo bờ biển Bắc Mỹ cũng như xâm lấn vào Trung và Nam Mỹ. Bộ đôi này có khả năng xúc tác cho những thay đổi trong sử dụng đất khi người chăn nuôi gia súc điều chỉnh hoạt động. Bọ ve gây hại cho động vật có vú và chim nên người ta lo ngại nó cũng có thể gây hại cho động vật hoang dã khi lây lan.

Tảo bẹ biến mất

Những khu rừng “tảo bẹ” lớn mọc dọc theo bờ biển trên khắp thế giới bảo vệ bờ biển khỏi xói mòn và là chỗ trú ẩn các loài cá quan trọng về mặt thương mại và những loài sinh vật đại dương khác. Mặc dù nổi tiếng về chịu được môi trường khắc nghiệt, nhiều khu rừng tảo bẹ đã suy giảm trong những năm gần đây, có thể là do nhiệt độ đại dương tăng, ô nhiễm, thu hoạch và các loài phi bản địa. Sự suy giảm thêm nữa có thể sẽ phá vỡ các hệ sinh thái đại dương dẫn đến thiệt hại về kinh tế đối với các dịch vụ trị giá hàng tỷ đô la mà chúng cung cấp cho con người.

Băng ở Nam Cực – nhân tố bất trị

Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

Lỗ thủng tầng ozone đã nhỏ lại nhưng cũng làm thay đổi gió và các kiểu thời tiết khác ở Nam Cực khiến nhiều băng tan chảy.

Ai cũng biết khí quyển nóng lên đang ăn mòn băng xung quanh cả hai cực của hành tinh. Điều mà ít được biết đến hơn và chỉ từng bước được các nhà khoa học hiểu là cách lỗ thủng tầng ozone ở Nam Cực ảnh hưởng đến điều này như thế nào. Lỗ thủng tầng ozone đã nhỏ lại do lượng phát thải ô nhiễm giảm. Sự biến đổi này có thể góp phần làm thay đổi gió và các kiểu thời tiết khác ở Nam Cực, tiếp đó sẽ khiến nhiều băng ở đây tan chảy, trầm trọng hóa thêm hiện tượng nước biển dâng trên toàn cầu và đe dọa hơn nữa sinh cảnh cùng các cộng đồng ven biển.

Thủy điện nhỏ và sinh thái sông

Các đập thủy điện nhỏ cung cấp năng lượng cho các cộng đồng địa phương ngày càng trở nên phổ biến tại châu Á và nhiều nơi khác. Mặc dù có thể thủy điện nhỏ tác động đến sử dụng đất ít hơn đập lớn nhưng vẫn làm gián đoạn dòng chảy và dòng trầm tích sông, do đó có thể thay đổi sinh cảnh theo cách ảnh hưởng đến động vật và thực vật sống trên sông suối. Với hơn 80.000 con đập đang hiện hữu và sẽ còn được xây dựng nhiều hơn nữa, cần phải hiểu rõ hơn về các tác động sinh thái tiềm tàng và những gì chúng ta có thể làm để giảm thiểu tác hại đối với cá và các sinh vật sống khác.

Nuôi trồng thủy sản tuần hoàn

Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

Nuôi trồng thủy sản tuần hoàn trở thành xu hươn

Nuôi cá đại dương có thể sản xuất một lượng lớn thực phẩm nhưng cần nhiều nước và gây ô nhiễm môi trường bằng các chất dinh dưỡng và hóa chất. Một cách tiếp cận đang được nghiên cứu để giảm các tác động bất lợi là sử dụng hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn, giúp giảm 97% nhu cầu nước. Hạn chế của phương pháp này là chi phí cũng như những lo ngại về các nhược điểm như nguồn cung cấp thức ăn và sử dụng năng lượng. Nếu các hạn chế này được giải quyết, các trang trại tuần hoàn có thể tăng nguồn cung cá đại dương một cách bền vững hơn so với các phương pháp thông thường.

Nấm diệt muỗi

Khi các loại thuốc trừ sâu thông thường như pyrethroid không còn hiệu quả trong việc tiêu diệt muỗi mang mầm bệnh sốt rét do kháng thuốc, các nhà khoa học đang tìm kiếm các giải pháp thay thế sáng tạo. Một giải pháp đang được phát triển gần đây là biến đổi gen một loại nấm truyền nhiễm cho muỗi để tạo ra một chất độc trong nọc độc của nhện. Kiểm soát sinh học kiểu này có lợi cho đa dạng sinh học bằng cách hợp lực để giảm sử dụng thuốc trừ sâu thông thường. Tuy nhiên, giải pháp cũng có thể gây ra vấn đề do ảnh hưởng đến cả các sinh vật hữu cơ khác chứ không chỉ muỗi mang mầm bệnh sốt rét.

Túi đựng trẻ sơ sinh

Trong số những tiến bộ hỗ trợ sinh sản mới nhất là sự phát triển của “túi sinh học” nhân tạo thay cho bụng mẹ chứa được bào thai đang phát triển đến hết thai kỳ. Mặc dù vẫn còn ở giai đoạn sơ khai, một thiết bị như vậy có khả năng được sử dụng để tăng khả năng sinh sản của các loài động vật có vú nguy cấp trong trường hợp cá thể cái mang thai thế hệ tiếp theo là trở ngại cho phục hồi loài. Tuy nhiên, những yếu tố cần được nghiên cứu là các tác động có thể có về hành vi và hệ thống miễn dịch cũng những hậu quả không lường trước khác của việc bỏ qua nơi ở tự nhiên của thai nhi: bụng mẹ.

Châu Á chữa bệnh, đa dạng sinh học gánh hậu quả

Top 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất năm 2022

 Y học cổ truyền châu Á có thể gây tác động xấu đến các là nguy cấp, bao gồm cả động vật và thực vật.

Y học cổ truyền châu Á trở nên nổi tiếng khi đầu năm 2019 được đưa vào Phân loại bệnh quốc tế của Tổ chức Y tế thế giới và là thị trường tăng trưởng được chính phủ Trung Quốc thúc đẩy cùng doanh số bùng nổ ở các quốc gia liên quan đến sáng kiến Vành đai và Con đường. Cho dù có tốt cho sức khỏe con người hay không, những tác động từ y học cổ truyền đến các loài nguy cấp là đáng lo ngại bởi một số phương thuốc cần tới các loài bị đe dọa. Không chỉ vậy, sự phát triển Vành đai và Con đường có thể nâng cao khả năng tiếp cận các loài như vậy, tăng thêm cơ hội thu hoạch các loài động thực vật được ưa chuộng.

Blockchain bí ẩn

Công nghệ blockchain đang tạo ra ngày càng nhiều các ứng dụng bao gồm quản lý năng lượng và tài nguyên thiên nhiên. Do không có tiêu chuẩn chung, blockchain mở ra cơ hội cho các ứng dụng gây tranh cãi như một khu rừng được trao quyền để bán gỗ của chính mình. Việc blockchain thiếu thỏa thuận và quy định sẽ tạo ra tác động lên đa dạng sinh học nằm ngoài các cấu trúc chính trị và quy định hiện hành. Tuy nhiên, công nghệ này cũng có thể được sử dụng để cải thiện quản trị tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ quyền đất đai bản địa và nhiều thứ nữa.

CSI: môi trường

Làm hại môi trường là một tội? Theo Quy chế Rome, trong một số tình huống cụ thể, tòa án hình sự quốc tế có thể buộc các cá nhân và chính phủ chịu trách nhiệm phá hủy tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, đang có những nỗ lực mở rộng định nghĩa về tội phạm có thể truy tố nằm ngoài giới hạn của quy chế để bao hàm cả tội hủy diệt sinh thái – gây hại cho môi trường ảnh hưởng đến khả năng của những người sống trong và cùng tồn tại hòa bình với môi trường đó. Nhiều sáng kiến đang hướng tới mục tiêu này,với tiềm năng thực hiện các hoạt động chung như đưa các hành động sản xuất khí nhà kính và phá hủy sinh cảnh ra truy tố theo luật pháp quốc tế.

Xoa dịu tác động chiến tranh

Gần đây, Ủy ban Pháp luật quốc tế Liên hợp quốc đã thông qua bộ nguyên tắc dự thảo nhằm bảo vệ môi trường trong các vụ xung đột. Các nguyên tắc này không chỉ yêu cầu các bên tham chiến ngăn chặn thiệt hại môi trường mà còn kêu gọi đưa khôi phục môi trường vào các cuộc đàm phán hòa bình và khắc phục thiệt hại sau khi xung đột kết thúc. Với sự phổ biến và tiềm năng thiệt hại từ các cuộc chiến hiện đại, những nguyên tắc này có thể mang lại lợi ích bảo tồn to lớn trên toàn thế giới.

Các mối đe dọa từ internet

Từ phổ biến nghiên cứu mới đến theo dõi sự di chuyển của các loài xâm lấn và chia sẻ các mối đe dọa với người dân, có thể nhận thấy phần lớn ngành đa dạng sinh học đang phụ thuộc vào việc truy cập internet. Nhưng năm 2018, Hoa Kỳ đã bãi bỏ các quy tắc trung lập internet tức yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ internet cung cấp quyền truy cập bình đẳng vào tất cả các trang web. Nếu thay đổi này lan sang các phán quyết pháp lý khác và mang lại quyền truy cập ưu tiên cho một số khách hàng thì sẽ xoay chuyển đáng kể (tốt hơn hoặc tệ hơn) khả năng của cộng đồng bảo tồn để vận động và bảo vệ các loài trên toàn thế giới.

Ecosystems on our planet are, as we have learned over and over as a species that seems to live outside them, much more fragile than we've given them credit for. Sometimes it only takes the introduction of one species to upend the whole boat. This can happen naturally... say a flood or a windstorm blows an invader into a new biome that is not prepared for it... but it is usually humans that are responsible for bringing these invaders in. Sometimes it is by accident, and other times we do it to solve a problem that we, ourselves, have created; then going on to make it so much worse. Insects and viruses can be carried across oceans by boats, on livestock or even our clothing. Animals can be imported as pets and then let loose... or imported as a possible resource, and then found to be deeply destructive and impossible to control. Island ecosystems are deeply vulnerable, often having completely endemic, carefully balanced food chains and interspecies relationships. The introduction of a single new animal can, and has, completely upended that balance. Large-scale agriculture is also vulnerable to a single invader that it has no defense against. We can struggle to right these human-caused wrongs, but often find ourselves helpless in the face of an imbalance we have no way to fight. This is a list of the most destructive invasive plants, animals and diseases on Earth. Vote up the ones that you have experienced the impacts of, either directly or indirectly.

Photo:

Không phải tất cả các cuộc xâm lược đều đến từ quân đội Maraud. Bạn có thể tàn phá một vị trí chỉ bằng cách giới thiệu một loài không bản địa tạo ra những thay đổi kịch tính và bất ngờ trong động lực của hệ sinh thái.

  • Tắt
  • Tiếng Anh

Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta đề cập đến các loài không bản địa bắt đầu chiếm một môi trường mới là "xâm lấn"-khi môi trường địa phương được trang bị không Các loài bản địa trong quá trình.

Dưới đây là mười ví dụ về các loài không bản địa nhanh chóng trở thành một vấn đề khổng lồ, xâm lấn.

Trong Chiến tranh thế giới, H.G. Wells cung cấp một mô tả đáng sợ về một thế giới vượt qua bởi một loài thực vật sao Hỏa xâm lấn được gọi là "Cỏ dại đỏ":

Ngày hôm sau, bình minh là một màu đỏ rực rỡ rực rỡ, và tôi lang thang qua cảnh quan kỳ lạ và lố bịch của một hành tinh khác, vì thảm thực vật mang đến cho Mars, vẻ ngoài màu đỏ của nó đã bắt nguồn từ Trái đất. Khi con người đã chịu thua người sao Hỏa, vì vậy vùng đất của chúng ta hiện đã chịu thua cỏ dại đỏ. Bất cứ nơi nào có một dòng suối, cỏ dại đỏ bám và phát triển với sự phàm ăn đáng sợ, những kẻ vệt của nó làm nghẹt thở chuyển động của nước. Và sau đó, nó bắt đầu leo ​​như một con vật màu đỏ nhếch nhác trên khắp vùng đất, bao phủ cánh đồng, và mương, và cây, và hàng rào, với những người cảm nhận đỏ tươi.

G/O phương tiện truyền thông có thể nhận được một khoản hoa hồng

Cuộc xâm lược của một loài ngoài hành tinh thống trị sự sống trên trái đất kể từ đó đã trở thành một trope phổ biến trong SF và tưởng tượng, nhưng nó cũng xảy ra trong cuộc sống thực. Đây là danh sách của chúng tôi:

10) Kudzu còn được gọi là "Vine dặm một phút" và "Vine That ăn ở miền Nam", cây nho Kudzu có nguồn gốc từ Nhật Bản, nhưng lần đầu tiên được đưa đến Hoa Kỳ vào năm 1876 khi nó được giới thiệu tại Philadelphia Triển lãm trăm năm như một cây nho cứng, phát triển nhanh có thể giúp ức chế xói mòn đất. Những gì họ không đề cập đến trong cuộc triển lãm là họ có ý nghĩa nhanh như thế nào khi họ nói Kudzu đang "phát triển nhanh". Kể từ khi được giới thiệu, Kudzu đã lan rộng khắp Hoa Kỳ với tốc độ nhanh tới 150.000 mẫu Anh, do thực tế là dây leo riêng lẻ của nó có thể tăng lên một chân mỗi ngày trong điều kiện thích hợp, vì những bức ảnh theo mùa của ngôi nhà này (thông qua) giúp minh họa.
Also known as the "mile-a-minute vine" and "the vine that ate the South," the Kudzu vine is native to Japan, but was first brought to the United States in 1876 when it was featured at the Philadelphia Centennial Exposition as a hardy, fast-growing vine that could help inhibit soil erosion. What they failed to mention at the Exposition was just how fast they meant when they said Kudzu was "fast growing." Since its introduction, Kudzu has been spreading across the U.S. at a rate as fast as 150,000 acres annually, due primarily to the fact that its individual vines can grow upwards of a foot per day in the right conditions, as the seasonal photos of this house (via) help illustrate.

9) Chuột đen, chuột đen rất có thể là một trong những loài xâm lấn đầu tiên được phân phối vô tình bởi con người. Các loài có nguồn gốc ở châu Á nhiệt đới, nhưng được cho là đã đến châu Âu vào thế kỷ thứ nhất A.D. trước khi lan rộng khắp thế giới, quá giang trên các tàu châu Âu. Kể từ đó, con chuột đen đã phát triển mạnh ở mọi khu vực trên thế giới, và đã thích nghi đặc biệt tốt với môi trường nông thôn, thành thị và ngoại ô. Thật không may, thành công của nó như là một loài, kết hợp với sự thành công của nhiều loài chuột khác, được cho là đã phải trả giá cho sự suy giảm dân số kịch tính và thậm chí tuyệt chủng của vô số loài chim, bò sát và các loài động vật có xương sống nhỏ khác trên toàn thế giới.
The black rat is most likely one of the first invasive species to ever be inadvertently distributed by humans. The species originated in tropical Asia, but is believed to have reached Europe by the first century A.D. before spreading across the world, hitching rides en masse on European ships. Since then, the black rat has thrived in just about every region of the world, and has adapted exceptionally well to rural, urban, and suburban environments alike. Unfortunately, its success as a species, in combination with the success of numerous other species of rats, is believed to have come at the expense of dramatic population declines and even extinction of countless bird, reptile, and other small vertebrate species the world over.

8) Con muỗi hổ châu Á này là muỗi hổ châu Á này được đặc trưng bởi mô hình sọc đen và trắng đặc biệt của nó, và trong khi nó có nguồn gốc từ các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của Đông Nam Á, các nhà khoa học tin rằng nó đã nhanh chóng trở thành một trong những loài động vật phân phối rộng rãi nhất của hành tinh , lan sang ít nhất 28 quốc gia ngoài phạm vi bản địa của mình trong hai thập kỷ qua. Con muỗi hổ được cho là lan truyền qua - của tất cả mọi thứ - buôn bán lốp xe quốc tế, vì lốp xe được lưu trữ bên ngoài có xu hướng giữ nước mưa, và cung cấp các điều kiện sinh sản và sống lý tưởng cho muỗi. Nó đặt ra một mối đe dọa khác biệt đối với dân số trên toàn thế giới, không chỉ bởi vì nó mang vi -rút như sốt xuất huyết và West Nile, mà bởi vì nó có xu hướng liên kết chặt chẽ với con người, và được biết là nuôi 24 giờ một ngày (nhiều loài muỗi chỉ ăn vào lúc hoàng hôn và bình minh).
This Asian tiger mosquito is characterized by its distinctive black and white stripe pattern, and while it's native to tropical and subtropical areas of Southeast Asia, scientists believe it has quickly become one of the planet's most widely-distributed animal species, spreading to at least 28 countries outside its native range in the last two decades alone. The tiger mosquito is believed to be spread through — of all things — the international tire trade, as tires stored outside tend to retain rainwater, and provide the ideal breeding and living conditions for the mosquito. It poses a distinct threat to populations worldwide, not only because it carries viruses like Dengue and West Nile, but because it tends to associate closely with humans, and is known to feed 24 hours a day (many species of mosquito only feed at dusk and dawn).

7. Đĩa trắng trưởng thành chỉ dài một milimet vào thời điểm chúng đến tuổi trưởng thành, nhưng được biết là ăn (với số lượng đáng kinh ngạc) trên 900 loại thực vật khác nhau trên toàn thế giới và có khả năng truyền lên 100 virus thực vật khác nhau. Trong khi những con đó được cho là có nguồn gốc từ Ấn Độ, bạn sẽ thấy chúng phát triển mạnh trên mọi lục địa nhưng ở Nam Cực. (Hình ảnh qua)
The cotton whitefly is living proof that some of the most hard-hitting invasive species come in tiny packages. Adult whiteflies measure just a millimeter long by the time they reach adulthood, but are known to feast (in staggering numbers) on 900 different kinds of plants worldwide, and are capable of transmitting upwards of 100 different plant viruses. While whiteflies are believed to have originated in India, you'll find them thriving on every single continent but Antarctica. (Image via)

6) Cá Snakehead the Snakehead là một con vật ác mộng hoàn toàn. Trên thực tế, National Geographic đã đi xa đến mức biệt danh là đầu phía bắc "Fishzilla", và với lý do chính đáng. Cá Snakehead là một lực lượng thực sự của tự nhiên-chúng có răng sắc nhọn, giống cá mập; một sự thèm ăn cho máu; có thể phát triển dài hơn ba feet; Có thể đẻ tới 75.000 quả trứng mỗi năm; Và thậm chí có thể thở và di cư trên đất liền, tìm kiếm các vùng nước khác trong tối đa bốn ngày một lần thông qua việc sử dụng một cơ quan thở nguyên thủy.
The snakehead is an absolutely nightmarish animal. In fact, National Geographic went so far as to nickname the Northern Snakehead "Fishzilla," and with good reason. Snakehead fish are a veritable force of nature — they have sharp, shark-like teeth; an appetite for for blood; can grow to over three feet in length; can lay up to 75,000 eggs a year; and can even breathe and migrate on land, searching for other bodies of water for up to four days at a time through the use of a primitive breathing organ.

Trong khi ban đầu chúng có nguồn gốc từ vùng biển Đông Á, nhiều loài Snakehead đã tàn phá các chuỗi thức ăn bản địa ở Mỹ, từ Maine đến California. (Hình ảnh qua)via)

5) Bọ cánh cứng châu Á Longhorned Beetle thực sự dành thời gian tàn phá nhất của cuộc đời trong giai đoạn ấu trùng, trong thời gian đó nó là đường hầm và ăn lớp cây được tìm thấy giữa vỏ cây và gỗ của chúng. Với số lượng đủ lớn, những ấu trùng này cuối cùng có thể giết chết cây. Để ngăn chặn sự xâm nhập mới, các quan chức thường phải dùng đến việc cắt giảm và đốt cây bị nhiễm trùng.
The Asian longhorned beetle actually spends the most destructive period of its life in a larval stage, during which time it tunnels and feeds on the layer of trees found between their bark and their wood. In large enough numbers, these larvae can eventually kill the tree. To prevent new infestations, officials often must resort to cutting down and burning infested trees.

Ban đầu có nguồn gốc từ các quốc gia ở châu Á như Nhật Bản, sự phá hoại của bọ cánh cứng châu Á lần đầu tiên được phát hiện ở New York vào khoảng năm 1996, nhưng nhanh chóng lan sang phần lớn bờ biển phía đông, nơi chúng được ước tính đe dọa 30-35% cây trên bờ biển Đại Tây Dương khu vực đô thị. Họ cũng được tìm thấy ở California, Ontario và một phần của châu Âu. Số lượng kinh tế của Bọ cánh cứng châu Á được ước tính là với số lượng từ hàng chục đến hàng trăm tỷ đô la.

4) Python Miến Điện, con trăn Miến Điện cung cấp ví dụ hoàn hảo về những gì có thể xảy ra khi một loài lớn, săn mồi được đưa vào một môi trường nơi động vật hoang dã bản địa cung cấp ít cạnh tranh về tài nguyên. Những con rắn khổng lồ - có thể mọc lên tới 20 feet - có nguồn gốc từ các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới ở Nam Á, nơi chúng ở nhà đi chơi trong và xung quanh nước khi chúng đang trượt quanh trên ngọn cây. Tuy nhiên, sự giới thiệu tình cờ của họ về hoang dã ở Florida, đã chỉ ra rằng loài này cũng đặc biệt tốt trong môi trường bán head của Công viên quốc gia Everglades, nơi ước tính 30.000 con trăn Miến Điện đã tạo thói quen ăn thịt trên nhiều loại chim có nguy cơ tuyệt chủng và cá sấu (vâng, cá sấu). (Hình ảnh qua)
The Burmese Python provides the perfect example of what can happen when a large, predatory species is introduced into an environment where the native wildlife offers little-to-no competition for resources. The huge snakes — which can grow to upwards of 20 feet in length — are native to the tropic and subtropic areas of Southern Asia, where they are just as at home hanging out in and around water as they are slithering around in the treetops. Their accidental introduction to the wild in Florida, however, has shown that the species also does particularly well in the semi-aquatic environment of Everglades National Park, where an estimated 30,000 Burmese Pythons have made a habit of feasting on a variety of endangered birds and alligators (yes, alligators). (Image via)

3) Con cóc mía đôi khi các loài xâm lấn được đưa vào các vùng như một hình thức kiểm soát dịch hại sinh học. Đôi khi những loài không bản địa này thực sự làm một công việc khá tốt để xử lý vấn đề dịch hại ban đầu. Và đôi khi họ làm một công việc tốt đến nỗi họ trở thành một vấn đề sâu bệnh khổng lồ. Con cóc mía thường được trích dẫn là ví dụ hoàn hảo của một loài được giới thiệu đi sai lầm khủng khiếp. Cây cóc mía có nguồn gốc từ Nam và Trung Mỹ, nhưng khi giới thiệu về các khu vực Hawaii, Caribbean và Philippines để chống sâu bệnh trong các cánh đồng mía mang lại kết quả ấn tượng, nó đã nhanh chóng được nhập khẩu vào các khu vực khác trên toàn thế giới.
Sometimes invasive species are introduced into regions as a form of biological pest control. Sometimes these non-native species actually do a pretty good job of handling the initial pest problem. And sometimes they do such a good job that they become an enormous pest problem themselves. The cane toad is often cited as the perfect example of an introduced species gone horribly wrong. The cane toad is native to South and Central America, but when its introduction to regions of Hawaii, the Caribbean, and the Philippines to fight pests in sugarcane fields yielded impressive results, it was quickly imported to various other regions worldwide.

Thật không may, những con cóc mía có thói quen khó chịu là không chỉ ăn sâu bệnh và côn trùng, mà còn về bất kỳ động vật trên mặt đất nào mà chúng có thể phù hợp với cái miệng khổng lồ của chúng . Họ cũng tiết ra độc tố có khả năng giết chết bất kỳ con vật nào chúng tiếp xúc với (con người đã chết sau khi ăn trứng), có nghĩa là chúng có xu hướng thiếu nghiêm trọng trong bộ phận ăn thịt tự nhiên. (Hình ảnh qua)via)

2) Thỏ châu Âu/phổ biến Thỏ phổ biến có nguồn gốc từ Nam Âu và Bắc Phi, nhưng xu hướng thỏ ... sản xuất quá mức ... đã dẫn đến sự giới thiệu và mở rộng không được kiểm soát của chúng trên mọi châu lục nhưng Nam Cực và Châu Á. Trường hợp nổi tiếng nhất về vụ nổ dân số có thể xảy ra ở Úc, nơi, vào năm 1859, một nông dân người Anh tên là Thomas Austin đã giới thiệu chỉ 24 con thỏ xám về lô đất của mình để nhắc nhở anh ta về nhà; Austin phỏng đoán rằng "việc giới thiệu một vài con thỏ có thể gây hại ít và có thể cung cấp một liên lạc về nhà, ngoài một điểm săn bắn."
The common rabbit is native to southern Europe and north Africa, but the tendency for rabbits to... overproduce... has led to their introduction and unchecked expansion on just about every continent but Antarctica and Asia. The most famous case of population explosion probably occurred in Australia, where, in 1859, an English farmer by the name of Thomas Austin introduced just 24 grey rabbits to his plot of land to remind him of home; Austin surmised that "the introduction of a few rabbits could do little harm and might provide a touch of home, in addition to a spot of hunting."

Tuy nhiên, trong vòng mười năm, những con thỏ đã nhân giống với những con thỏ địa phương với quy mô sung mãn đến mức hai triệu người có thể bị bắn hoặc bị mắc kẹt hàng năm mà không có tác động đáng chú ý đến dân số. Đến năm 1900, quần thể thỏ đã bùng nổ với kích thước phản ánh sự gia tăng dân số gần như theo cấp số nhân, đã góp phần làm xói mòn nghiêm trọng các loại đất trên khắp lục địa bằng cách tăng cường và đào tạo, và được cho là yếu tố đáng kể nhất đối với sự mất .

1) Nile cá rô cá rô sông Nile có nguồn gốc từ một số hệ thống hồ và sông nước ngọt. Tuy nhiên, khi nó được giới thiệu đến Hồ Victoria vào những năm 1950, hệ sinh thái của hồ không được chuẩn bị cho nó. Trong khi các quần thể cá được kiểm soát thông qua việc đánh bắt cá thương mại trong nhiều thập kỷ, dân số đã bùng nổ vào cuối những năm 1980, dẫn đến sự tuyệt chủng hoặc gần tuyệt chủng của hàng trăm loài bản địa. Tác động tàn phá của cá khổng lồ-có thể tăng lên tới 2 mét và nặng hơn 200 kg-được cho là kết quả của sự thèm ăn phàm ăn của nó đối với các thành viên hỗ trợ hệ sinh thái quan trọng như cá, giáp xác, côn trùng và động vật phù du . (Hình ảnh qua).
The Nile Perch is native to a number of freshwater African lake and river systems. When it was introduced to Lake Victoria in the 1950's however, the lake's ecosystem was not prepared for it. While populations of the fish were kept in check through commercial fishing for several decades, the population exploded in the late 1980's, leading to the extinction or near extinction of several hundred native species. The devastating impact of the gigantic fish — which can grow up to 2 meters in length and weigh in at over 200 kg — is believed to be the result of its voracious appetite for key ecosystem-supporting members like fish, crustaceans, insects, and zooplankton. (Image via).

Đọc thêm các loài thực vật và động vật trong danh sách này đã được chọn từ cơ sở dữ liệu loài xâm lấn toàn cầu để biết thêm thông tin về các loài xâm lấn ở Hoa Kỳ, hãy truy cập Dịch vụ kiểm tra sức khỏe động vật và thực vật USDA Hình ảnh hàng đầu của Weed Red của Nikedorchain tại Deviantart
Plant and Animal species on this list were selected from The Global Invasive Species Database
For more information on invasive species in the U.S., visit the USDA Animal and Plant Health Inspection Service
Top image of Red Weed by NikeDorchain at deviantART

100 loài xâm lấn hàng đầu nhất là gì?

Danh sách các loài.

Các loài xâm lấn số 1 là gì?

1. Cá chép châu Á.Cá chép châu Á bao gồm Bighead, Bạc, Đen và Cỏ Cá Cá đã mang lại các quốc gia vào những năm 1970 như một phương tiện để làm sạch các nhà máy xử lý nước thải của đất nước và ao nuôi trồng thủy sản.Xuất thân từ Trung Quốc, giờ đây chúng có thể được tìm thấy dọc theo sông Mississippi cũng như nhiều điểm khác ở Hoa Kỳ.Asian Carp. Asian carp—including bighead, silver, black, and grass carp—were brought stateside in the 1970s as a means of cleaning up the country's wastewater treatment plants and aquaculture ponds. Originally from China, they can now be found along the Mississippi River as well as many other spots in the U.S.

Các loài xâm lấn có hại nhất là gì?

Gây tổn hại nhất các loài xâm lấn trên hành tinh.....
Cây gậy khổng lồ.....
Shoebutton Ardisia.....
Aphanomyces.....
Bọ cánh cứng ở châu Á.....
Kiến điên cuồng con kiến.....
Muỗi sốt rét.....
Muỗi hổ châu Á ..

Có phải 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất thế giới cũng tốn kém nhất?

Chỉ có 60 trong số 100 loài tồi tệ nhất có chi phí xâm lược được coi là đáng tin cậy và thực sự được quan sát các ước tính (trung bình: 43 triệu USD). (median: US$ 43 million).