Trong các bài thơ hiện đại Việt Nam em thích nhất bài thơ nào vì sao
Đây là khổ thơ mà em thích nhất trong bài “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận: "Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng" Đoạn thơ nói về cảnh kéo lưới một đêm trăng trên biển. Lúc sao mờ là lúc đêm sắp tàn, trời sắp sáng. Các bạn chài nhìn sao rồi hối hả giục nhau: “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng”. Chữ “kịp” nói lên sự hối hả, khẩn trương. Phải kéo lưới để trở về bến đem cá bán phiên chợ mai, cho cá được tươi ngon, được giá. Câu thơ thứ hai có hai hình ảnh rất gợi cảm. Hình ảnh thứ nhất: "Ta kéo xoăn tay". Chữ “xoăn tay” gợi tả những cánh tay rắn chắc, dẻo dai của những chàng trai làng chài như xoắn lại, như căng lên lúc kéo lưới. Một vẻ đẹp khoẻ khoắn trong lao động rất đáng yêu. Hình ảnh thứ hai: “chùm cá nặng” là một hình ảnh so sánh rất sáng tạo. Cá mắc vào lưới rất nhiều, treo lủng lẳng như những chùm trái cây trĩu cành, phải kéo rất “nặng” tay. Câu thơ "Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” nói lên một chuyến ra khơi may mắn, đánh bắt được nhiều cá. Lao động thực sự là nguồn sống đem lại hạnh phúc cuộc đời. Câu thơ thứ ba là một bức tranh cá có đường nét, màu sắc tráng lệ. Cá chất đầy khoang thuyền, cá tươi roi rói. “Vảy bạc đuôi vàng" của cá “lóe” lên dưới ánh hồng rạng đông. Nghệ thuật phối sắc của Huy Cận thật tài ba thần tình. Ông đã viết nên câu thơ có hình ảnh đẹp đầy ánh sáng. Sau cảnh kéo lưới là cảnh chuẩn bị trở về bến. Những chàng trai làng chài hối hả xếp lưới, kéo buồm lên. Cánh buồm, con thuyền tràn ngập ánh hồng bình minh. Con thuyền và cánh buồm chớ đầy niềm vui sau một chuyến ra khơi đánh cá gặp nhiều may mắn. Có thể nói khổ thơ này đã thể hiện khá hay một nét đẹp về cuộc sống và sinh hoạt của bà con dân chài trên vùng biển quê hương. Cảnh kéo lưới là một nét vui của bài ca lao dộng, bài ca cuộc đời. Cảm hứng lãng mạn thấm đẫm vần thơ “Đoàn thuyền đánh cá" Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, có rất nhiều bài thơ hay đã ra đời để khích lệ tinh thần các chiến sĩ cách mạng cũng như tố cáo tội ác của bọn thực dân. Mỗi trang thơ là một câu chuyện xúc động và chân thật của nhân dân ta trong những ngày gian khổ. Hãy cùng Tikibook điểm qua một vài áng thơ nổi tiếng nhất trong thời kì này nhé.
Quang Dũng không có quá nhiều bài thơ nổi tiếng, nhưng chỉ cần một bài “Tây Tiến” là đã đủ cho độc giả nhớ đến nhà thơ lãng mạn này. Tây Tiến ra đời cùng thời với Đồng Chí nhưng lại được tiếp cận theo bút pháp lãng mạn hoá. Chính vì thế, những vần thơ Tây Tiến luôn chứa đựng một nét gì đó bay bổng mà lại lãng mạn khác thường. Không chỉ miêu tả bức tranh phong cảnh miền núi Tây Bắc trên đường hành quân vừa đẹp lại hùng vĩ, Tây Tiến còn khắc hoạ bức chân dung những người lính trẻ xuất thân từ tầng lớp tri thức thủ đô. Họ là những chàng trai dám gác lại những giấc mộng cá nhân để đi theo tiếng gọi của Tổ quốc. Hình ảnh “đoàn binh Tây Tiến” hiện lên vừa anh dũng lại hào hùng đã gây ấn tượng mạnh với người đọc qua bao thế hệ. Bài thơ Tây Tiến: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, Mường Lát hoa về trong đêm hơi. Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét, Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp, Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy, Có thấy hồn lau nẻo bến bờ? Có nhớ dáng người trên độc mộc, Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa? Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Áo bào thay chiếu, anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Tây Tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi. Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.” Tây Tiến – Quang Dũng Tây Tiến – Quang Dũng Màu tím hoa sim là một vần thơ buồn về kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ được nhà thơ Hữu Loan viết tặng người vợ quá cố của mình là bà Lê Đỗ Thị Ninh vào năm 1949. Xuyên suốt tác phẩm là câu chuyện của một đôi vợ chồng trẻ cưới nhau đương lúc chiến tranh chống Pháp. Người trai ra trận trở về thì nghe tin người vợ hiền ở hậu phương đã ra đi. Bài thơ khắc hoạ một nỗi đau dai dẳng về sự mất mát khôn nguôi mà chiến tranh mang lại. Đồng thời, từng câu từng chữ trong tác phẩm cũng thể hiện nét nghĩa tình sắt son mà nhà thơ Hữu Loan dành cho vợ mình. Hình ảnh màu tím hoa sim vừa tượng trưng cho màu áo cưới lại vừa ghi dấu cho tình cảm sâu đậm của nhà thơ. Chính vì thế không ít người cho rằng đây là bài thơ tình hay nhất thế kỉ 20. Bài thơ Màu tím hoa sim: “Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân nhân đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê… Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói không được trông nhau một lần Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa… Một chiều rừng mưa Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa ГЃo anh sб»©t chỉ Д‘Ж°б»ќng tГ Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau Chiều hoang tím có chiều hoang biết Chiều hoang tím tím thêm màu da diết Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu… Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím Tôi ví vọng về đâu Tôi với vọng về đâu Áo anh nát chỉ dù lâu…” Màu tím hoa sim – Hữu Loan Màu tím hoa sim – Hữu Loan Bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi khắc họa nên một Việt Nam vừa bi tráng mà cũng đậm nét đau thương giữa mưa bom bão đạn. Những hình ảnh thanh bình, yên ả thường thấy nay được thay bằng cảnh hoang tàn, đổ nát. Tất cả đã tố cáo tội ác man rợ của bọn thực dân gây nên. Đặc biệt hơn, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ cũng như những hình ảnh gợi hình, gợi cảm để biến những đau thương ban đầu thành một nét đẹp hào hùng và khí thế. Từ đó, nhà thơ thể hiện một tình yêu Đất Nước nồng nàn và bất diệt. Đất Nước từng được in trong chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn 12 giai đoạn 1990-2006, sau đó bài thơ được chuyển thành đọc thêm trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 từ 2007. Bài thơ Đất Nước: “Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha! Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về! Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Từ những năm đau thương chiến đấu Ðã ngời lên nét mặt quê hương Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Ðã bật lên những tiếng căm hờn Bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta Thằng giặc Tây, thằng chúa đất Ðứa đè cổ, đứa lột da… Xiềng xích chúng bay không khoá được Trời đầy chim và đất đầy hoa Súng đạn chúng bay không bắn được Lòng dân ta yêu nước thương nhà! Khói nhà máy cuộn trong sương núi Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng Ôm đất nước những người áo vải Ðã đứng lên thành những anh hùng. Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh. Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng loà.” Đất Nước – Nguyễn Đình Thi Đất Nước – Nguyễn Đình Thi Bài thơ Việt Bắc được trích trong tập thơ cùng tên được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10-1954 nhân dịp cán bộ cách mạng rời Việt Bắc trở về xuôi. Bài thơ được viết ở thể thơ lục bát, mượn cách xưng hô dân gian mình – ta giúp tác giả dễ dàng bộc lộ cảm xúc của mình. Bài thơ là lời tâm tình của tác giả về những chuỗi ngày sinh sống và làm việc tại Việt Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Gắn bó như máu thịt tại vùng đất này nên đến lúc chia tay, tâm trạng của Tố Hữu và các cán bộ về xuôi rất xúc động, bùi ngùi nhớ về mười lăm năm đã qua. Tóm lại, Việt Bắc là một áng thơ hay trong thời kì kháng chiến mà các bạn nên đọc và cảm nhận. Trích đoạn Việt Bắc “Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… – Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già. MГ¬nh Д‘i, cГі nhб»› nhб»Їng nhГ Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? – Ta với mình, mình với ta Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu… Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi… Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô. Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa… Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng. Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng. Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà… Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang. Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công Điều quân chiến dịch thu đông Nông thôn phát động, giao thông mở đường Giữ đê, phòng hạn, thu lương Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu… Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. Mười lăm năm ấy, ai quên QuГЄ hЖ°ЖЎng CГЎch mбєЎng dб»±ng nГЄn Cб»™ng hoГ Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…” Việt Bắc – Tố Hữu Việt Bắc – Tố Hữu “Đồng chí” là một trong những áng thơ tiêu biểu nhất trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ ra đời vào năm 1948 và được in trong tập “Đầu súng trăng treo” – tập thơ duy nhất của nhà thơ Chính Hữu. Bức chân dung những người lính được tác giả miêu tả qua những câu thơ hết sức chân thực và xúc động, lột tả được hết những gian lao, khắc khổ mà những người lính phải trải qua trong thời kì kháng chiến. Hơn thế nữa, bài thơ ca ngợi vẻ đẹp chung chí hướng của những người đồng đội, đồng chí vì cùng chung lý tưởng mà gặp gỡ, quen biết và đồng hành cùng nhau. Bài thơ “Đồng chí” với ngôn từ giản dị đã khắc hoạ nên hình tượng những người nông dân khi hoá thân thành các chiến sĩ anh dũng, chạm vào trái tim của người đọc sau này. Bài thơ Đồng Chí: “Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí! Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay! Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.” Đồng Chí – Chính Hữu Đồng Chí – Chính Hữu Hi vọng với danh sách những bài thơ mà Tikibook nêu trên, các bạn sẽ tìm đọc để thêm hiểu và yêu hơn về đất nước và con người Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Từ khóa: 5 Bài thơ hay nhất về kháng chiến chống Pháp |