CÚ PHÁP, NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG
CỦA ĐẠI TỪ
PHIẾM ĐỊNH TRONG TIẾNG VIỆT
Nguyễn Hồng Cổn**
1. Dẫn nhập
Cũng như ở nhiều ngôn ngữ khác mà các nghiên cứu loại hình học về đại
từ phiếm định đã chỉ ra,1] trong tiếng Việt có một số đại từ có hình thức
giống như đại từ nghi vấn nhưng được sử dụng ở các chức năng là đại từ
phiếm định. Ví dụ, so sánh các cặp đại từ ai và gì trong các ví dụ [1a với 1b,
2a với 2b] sau đây:
1] a. Anh muốn gặp ai?
b. Tôi không muốn gặp ai cả.
2] a. Em thích ăn gì ?
b. Em không thích ăn gì cả.
Điều khác biệt dễ nhận thấy là trong khi các đại từ ai và gì trong các
phát ngôn [1a] và [2a] luôn đòi hỏi một câu trả lời, thì các đại từ ai và gì
trong các câu [1b] và [2b] lại không đòi hỏi một câu trả lời như vậy. Sự
This work was supported by Hankuk University of Foreign Studies Reseach Fund
of 2015 and presented at the seminar which was organized by HUFS’ ASEAN
Research Center on Jun12, 2015.
** Associate Professor from Vietnamese Department of HUFS [Seoul, Korea] and
Linguistic Department of USSH, VNU [Hanoi, Vietnam].
1] Xem chẳng hạn, Haspelmath, Martin, [1997], Indefinite pronouns, Oxford:
Clarendon
188
東南亞硏究 25 권 2 호
khác biệt này càng thể hiện rõ khi chúng ta dịch những câu trên sang tiếng
Anh, trong đó ai ở [1a] được dịch bằng đại từ nghi vấn who, còn ai ở [1b]
được dịch bằng đại từ phiếm định anyone; tương tự, gì ở [2a] được dịch
bằng đại từ nghi vấn what, còn gì ở [2b] được dịch bằng đại từ phiếm định
anything:
1] a. Anh muốn gặp ai?
Whom do you want to see?
b. Tôi không muốn gặp ai cả.
I don’t want to see anyone.
2] a. Em thích ăn gì ?
What do you like to eat?
b. Em không thích ăn gì cả.
I don’t like to eat anything.
Trong Việt ngữ học đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến nhóm
các đại từ này [như ai và gì ở các câu 1b, 2b] và gọi chúng là các đại từ
phiếm định2] hoặc đại từ phiếm chỉ3], để phân biệt với các đại từ nghi vấn
đánh dấu tiêm điểm hỏi ở [1a, 2a]. Đặc biệt, Nguyễn Đức Dân [đã dẫn] đã
đi sâu làm rõ các chức năng dụng học của đại từ phiếm định trong việc tạo
lập một số kiểu câu như câu khẳng định tuyệt đối, phủ định tuyệt đối, chất
vấn bác bỏ. Ngoài ra, còn có một số bài báo đề cập đến việc sử dụng,
chuyển dịch hay giảng dạy một hay một vài đại từ phiếm định tiếng Việt cụ
thể.4]
2] Nguyễn Đức Dân, [1987], Lôgich, ngữ nghĩa và cú pháp, Nxb ĐHTHCN; [1998],
Lôgich và tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
3] Diệp Quang Ban, [2005], Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
4] Chẳng hạn, Mai Ngọc Chừ, [2003], “Từ đâu và những cấu trúc chứa từ đâu trong
tiếng Việt.”, T/c Ngôn ngữ số 3/2003; Đinh Văn Sơn, [2011], “Một số khả năng
chuyển dịch từ phiếm định trong câu khẳng định tuyệt đối của tiếng Việt sang
tiếng Anh”, T/c Khoa học, ĐHSP TPHCM, số 32/2011.
CÚ PHÁP, NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG CỦA ĐẠI TỪ PHIẾM ĐỊNH TRONG TIẾNG
189
Trong các tài liệu dạy tiếng Việt cho người nước ngoài nhóm đại từ này,
cùng với các kiểu câu mà chúng thường xuyên được sử dụng, cũng được
nhiều tác giả đưa vào. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả chỉ quan tâm đến việc
sử dụng các đại từ này mà bỏ qua phần giải thích đặc điểm [ngữ pháp, ngữ
nghĩa, ngữ dụng] của chúng với tư cách là các đại từ phiếm định, thậm chí
còn ghi chú chúng như là các đại từ nghi vấn5]. Điều này gây ra những khó
khăn nhất định cho người dạy và người học tiếng Việt đối với nhóm đại từ
này.
Nhằm giúp người dạy và người học có thể phân biệt được đại từ phiếm
định và đại từ nghi vấn, nắm được đặc điểm của các đại từ này, và biết
cách sử dụng chúng để tạo lập câu, trong bài viết này chúng tôi sẽ đi sâu
tìm hiểu các đặc điểm ngữ pháp [cú pháp], ngữ nghĩa và ngữ dụng của
chúng.
2. Cú pháp của đại từ phiểm định tiếng Việt
2.1 Chức năng cú pháp của đại từ phiếm định
Vê mặt hình thức, như đã nói, các đại từ phiếm định tiếng Việt không có
gì khác biệt với các đại từ nghi vấn, bởi vì về thực chất các đại từ phiếm
định [như ai, gì, đâu, nào, bao giờ, bao nhiêu...] chính là các đại từ nghi
vấn tương ứng được chuyển đổi chức năng, từ chức năng biểu hiện tiêu
điểm hỏi sang chức năng chỉ xuất không xác định. Về chức vụ cú pháp,
cũng giống như đại từ nghi vấn, các đại từ phiếm định có thể đảm nhiệm
các chức năng cú pháp khác nhau trong câu, ví dụ:
5] Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển [2005], Thực hành tiếng Việt C,
ĐHQGHN.
190
東南亞硏究 25 권 2 호
- Chủ ngữ: 3] a. Ai biết? b. Ai chẳng biết.
- Bổ ngữ 4] a. Chị mua gì? b. Tôi không mua gì cả.
- Trạng ngữ : 5] a. Hôm qua, anh đi đâu? b.Tôi không đi đâu cả.
Và đây chính là lý do mà một số nhà nghiên cứu không phân biệt đại từ
nghi vấn và đại từ phiếm định như là các nhóm đại từ khác nhau. Tuy nhiên,
đại từ phiếm định có những điểm khác biệt cơ bản với đại từ nghi vấn về
ngữ pháp, thể hiện ở khả năng phân bố của chúng trong câu.
2.2 Khả năng phân bố của đại từ phiếm định
Mặc dù có thể đảm nhận những chức năng cú pháp tương tự như đại từ
nghi vấn [làm chủ ngữ, bổ ngữ hay trạng ngữ của câu] như đã nói ở trên,
các đại từ phiếm định lại có sự khác biệt với đại từ nghi vấn về khả năng
phân bố ở một số chu cảnh cú pháp. Cụ thể, đại từ phiếm định và đại từ
nghi vấn có sự đối lập về phân bố [hay là có phân bố bổ sung] trong các
chu cảnh sau đây:
2.2.1 Với chu cảnh [ ... cũng/chẳng]
- Các đại từ nghi vấn ai, gì, đâu, nào... không thể đứng trước cũng để
tạo nên các câu hỏi với tiêu điểm hỏi là các đại từ tương ứng. Chẳng hạn,
chúng ta có thể hỏi như [6a], [7a], mà khó có thể hỏi như [6b, 6c], [7b, 7c].
6] a. Ai đi với tôi? - Tôi đi với anh.
* b. Ai cũng đi với tôi? - Tôi cũng đi với anh
*c . Ai chẳng đi với tôi?
[Thay vì dùng [6b], có thể nói: Còn ai đi với tôi nữa?]
7] a. Cái gì đẹp? - Cái áo này đẹp
*b] Cái gì cũng đẹp? – Cái áo này cũng đẹp
*c] Cái gì chẳng đẹp?
[Thay vì dùng [7b], có thể nói: Còn cái gì đẹp nữa? ]
CÚ PHÁP, NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG CỦA ĐẠI TỪ PHIẾM ĐỊNH TRONG TIẾNG
191
- Ngược lại, các đại từ phiếm định có khả năng xuất hiện trước
cũng/chẳng để tạo nên các phát ngôn có ý nghĩa khẳng định tuyệt đối [x.
mục 3 dưới đây], bất luận ở chức vụ cú pháp nào. Các đại từ phiếm định
có thể đứng trực tiếp trước cũng/chẳng trong cùng một cú như ở [8], nhưng
cũng có thể đứng tách biệt với cũng/chẳng ở hai cú khác nhau như ở [9]:
8] a. Ai cũng đi.
b. Ai chẳng đi
9] a. Tôi nói gì, nó cũng nghe.
b. Tôi nói gì nó chẳng nghe.
2.2.2 Với chu cảnh [không/chưa/chẳng ... [cả/hết]]
- Các đại từ nghi vấn ai, gì, đâu, nào... không xuất hiện ở các chu cảnh
giữa các phó từ phủ định không/chưa/chẳng và các tiểu từ cuối câu cả/hết
để tạo nên các câu hỏi với tiêu điểm hỏi là các đại từ tương ứng. Chẳng
hạn, chúng ta có thể hỏi các câu như [10a], [11a] mà không thể hỏi các câu
như [10b] và [11b] dưới đây:
10] a. Nó không ăn gì?
*b. Nó không ăn gì cả?
11] a. Họ chưa đi đâu?
b. Họ chưa đi đâu hết?
- Ngược lại, khi xuất hiện ở các chu cảnh này, các đại từ phiếm định lại
tạo nên các câu có chức năng phủ định tuyệt đối:
12] Nó không/chưa/chẳng ăn gì cả
13] Họ không/chưa/chẳng đi đâu hết.
2.2.3 Với chu cảnh [có/đã....không/chưa?]
Đây là một chu cảnh mập mờ: các đại từ xuất hiện ở chu cảnh này vừa
có đặc điểm của đại từ nghi vấn, vừa có đặc điểm của đại từ phiếm định.
So sánh chẳng hạn, [14] với [15] :
192
東南亞硏究 25 권 2 호
14] Em ăn gì?
15] a. Em có ăn gì không?
b. Em đã ăn gì chưa?
Có thể thấy cả ba câu trên đều là câu hỏi chính danh nhưng có khác biệt
về kiểu câu hỏi và tiêu điểm hỏi. Câu [14] là câu hỏi chuyên biệt, có tiêu
điểm hỏi là gì? đòi hỏi thông tin cho bổ ngữ của vị ngữ ăn. Ở đây gì là
một đại từ nghi vấn đích thực [vì đòi hỏi có câu trả lời]. Ngược lại, các câu
[15a, 15b] là các câu hỏi có – không, có tiêu điểm hỏi rơi vào động từ ăn
và được đánh dấu bằng các cặp từ nghi vấn có....không [có ăn không?],
đã...chưa [đã ăn chưa?], chứ không phải được biểu hiện bằng đại từ gì. Vì
vậy, gì xuất hiện trong chu cảnh [có/đã.....không/chưa?] có vẻ là một đại
từ phiếm định hơn là một đại từ nghi vấn. Chúng tôi sẽ quay trở lại vấn đề
này ở mục 3.2 khi bàn về chức năng dụng học của đại từ phiếm định trong
câu hỏi có – không.
Tóm lại có thể dựa vào khả năng phân bố ở các chu cảnh [+ cũng] và
[không/chưa/chẳng....hết/cả], [có/đã....không/chưa?] để phân biệt đại từ
phiếm định và đại từ nghi vấn. Sự khác biệt ở đây là đại từ nghi vấn không
thể xuất hiện ở các chu cảnh trên để tạo ra một câu hỏi chuyên biệt chính
danh còn các đại từ phiếm định khi xuất hiện ở các chu cảnh trên thì tạo ra
các câu phi nghi vấn có giá trị dụng học khác nhau.
Tuy nhiên, sự khác biệt chính và là nguyên nhân của những khác biệt
trên đây về mặt ngữ pháp giữa đại từ phiếm định và đại từ nghi vấn nằm ở
đặc điểm ngữ nghĩa – ngữ dụng của đại từ phiếm định như sẽ trình bày
dưới đây.
CÚ PHÁP, NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG CỦA ĐẠI TỪ PHIẾM ĐỊNH TRONG TIẾNG
193
3. Ngữ nghĩa và ngữ dụng của đại từ phiếm
định tiếng Việt
3.1 Chức năng ngữ nghĩa của đại từ phiếm định
Nếu như chức năng ngữ nghĩa chủ yếu của đại từ nghi vấn là biểu hiện
tiêu điểm hỏi thì chức năng chủ yếu của đại từ phiếm định là chỉ xuất
không xác định. Chỉ xuất không xác định [indefinite reference] là chức
năng chỉ xuất của các biểu thức ngôn ngữ không có các sở chỉ cụ thể, chính
xác trong ngữ cảnh hay trong diễn ngôn, trong các ngôn ngữ thường được
biểu hiện bằng các danh ngữ không xác định hoặc các đại từ phiếm định.6
Cũng như ở các ngôn ngữ khác, trong tiếng Việt, bên cạnh các danh ngữ
không xác định [như một + danh từ, một vài/một số + danh từ, những +
danh từ], các đại từ phiếm định cũng được dùng để chỉ xuất không xác định.
Cứ liệu cho thấy, trong tiếng Việt các đại từ phiếm định được dùng để chỉ
xuất các sở chỉ không xác định sau đây:
- Sở chỉ là toàn thể /toàn bộ [người, vật, tình huống] không xác định:
16] Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang. [ai => tất cả mọi người]
17] Trong lớp này, ai cũng học giỏi. [ai => mọi người trong lớp]
18] Cái gì nó cũng lấy. [cái gì => mọi thứ]
19] Đâu cũng có người. [đâu => mọi nơi]
- Sở chỉ là một bộ phận không xác định [có thể có những ở trước đại từ] :
20] Ai đi thì sáng mai đến sớm. [ai => những người sẽ đi]
21] Đừng quên những gì mẹ dặn. [những gì => những điều mẹ dặn]
22
] Cho
bao nhiêu,
lấy bấy nhiêu. [
bao nhiêu
=> một số không xác định]
- Sở chỉ là một cá thể [người, vật, tình huống] không xác định:
6] Xem chẳng hạn, Hawkins, J.A. [1978] Definiteness and indefiniteness: a study in
reference and grammaticality prediction. London:Croom Helm.
194
東南亞硏究 25 권 2 호
23] Có ai gọi điện cho anh đấy. [ai = một người nào đó]
24] Em có muốn uống gì không? [gì = một loại đồ uống nào đó]
Cần phân biệt các đại từ phiếm định có chức năng chỉ xuất không xác
định với các trường hợp các đại từ nghi vấn được dùng trong một số phát
ngôn biểu hiện các hành động ngôn từ gián tiếp, ví dụ:
- Phát ngôn hỏi gián tiếp có hình thức là câu tường thuật
25] Anh nghĩ ai đã làm việc này.
26] Tôi không biết phải làm gì bây giờ.
- Phát ngôn cấu khiến có hình thức là một câu hỏi:
27] Ai lại làm thế?
28] Anh làm thế làm gì?
- Phát ngôn bác bỏ có hình thức là một câu hỏi:
29] Ai bảo anh thế?
30] Đẹp gì mà đẹp?
- Phát ngôn khằng định có hình thức là một câu hỏi:
31] Anh không làm việc này thì ai?
32] Không ăn cơm thì ăn gì?
Ở các trường hợp trên đây, các đại từ nghi vấn hoặc không được dùng
trong các câu hỏi trực tiếp [25, 26] hoặc vẫn được dùng trong câu hỏi
nhưng đích ngôn trung chính không phải là để hỏi [các câu 27-32] nên
chức năng biểu hiện tiêu điểm hỏi của chúng bị mờ đi. Mặc dù vậy, giá trị
ngôn trung hỏi của các đại từ nghi vấn này không hề thay đổi. Bằng chứng
là các câu [25-32] vẫn có thể trả lời bằng những câu có tiêu điểm thông tin
ứng với các tiêu điểm hỏi do đại từ nghi vấn biểu thị.
Tóm lại, khác với các đại từ nghi vấn có chức năng biểu hiện tiêu điểm
hỏi, chức năng ngữ nghĩa của đại từ phiếm định là chỉ xuất không xác định.
Nhờ có chức năng ngữ nghĩa này mà các đại từ phiếm định của tiếng Việt
có các chức năng ngữ dụng khác, thể hiện ở việc tham gia tạo lập các kiểu
câu chuyên biệt, như sẽ trình bày dưới đây.
CÚ PHÁP, NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG CỦA ĐẠI TỪ PHIẾM ĐỊNH TRONG TIẾNG
195
3.2 Chức năng ngữ dụng của đại từ phiếm định
Đặc điểm ngữ dụng của các đại từ phiếm định được thể hiện qua các
chức năng ngữ dụng mà Nguyễn Đức Dân7] gọi là các “chức năng tạo câu”.
Khảo sát chức năng này của các từ phiếm định nói chung [trong đó đại từ
phiếm định chỉ là một nhóm], Nguyễn Đức Dân [đã dẫn] đã đề cập đến khả
năng của từ phiếm định trong việc tạo lập các kiểu câu khẳng định tuyệt
đối, phủ định tuyệt đối và chất vấn-bác bỏ. Phân tích cứ liệu riêng, chúng
tôi nhận thấy ngoài 2 kiểu câu khẳng định và phủ định tuyệt đối, các đại từ
phiếm định tiếng Việt còn tham gia cấu tạo kiểu câu tồn tại giới thiệu sở
chỉ mới không xác định và kiểu câu hỏi có – không không xác định sở chỉ
của đối thể. Riêng các kiểu câu bác bỏ và khẳng định có hình thức là câu
hỏi, như đã trình bày ở mục 3.1 chúng tôi coi các đại từ được sử dụng ở
đây vần là đại từ nghi vấn chứ không phải là đại từ phiếm định.
3.2.1 Câu tồn tại có đại từ phiếm định
Câu tồn tại là kiểu câu giới thiệu một sở chỉ mới vào diễn ngôn. Trong
tiếng Việt kiểu câu này có các đặc điểm sau: 1] có 1 vị từ tồn tại có hoặc
còn, 2] sở chỉ mới được biểu hiện bằng một biểu thức không xác định
[thường là danh ngữ] đi sau vị từ tồn tại, 3] trước vị từ tồn tại có thể có
thêm một giới ngữ [chỉ không gian hoặc thời gian]8]. Ví dụ:
33] Còn tiền.
34] Trong nhà có một người đang ngủ.
Với tư cách là các biểu thức có chức năng chỉ xuất không xác định, các
đại từ phiếm định trong tiếng Việt cũng tham gia cấu tạo kiểu câu này, ví
dụ:
7] Nguyễn Đức Dân, [1987], Lôgich, ngữ nghĩa và cú pháp, Nxb ĐHTHCN, Hà Nội.
8] Diệp Quang Ban, [2005], Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, tr. 169-185.
196
東南亞硏究 25 권 2 호
35] Có ai đang đến đấy!
36] Trong nhà không có ai cả.
37] Có cái gì trăng trăng trắng đằng kia.
38] Trong túi còn bao nhiêu là bánh.
3.2.2 Câu khẳng định tuyệt đối với đại từ phiếm định
Trong tiếng Việt, câu khẳng định tuyệt đối bình thường là kiểu câu
khẳng định mà chủ ngữ là một danh ngữ có các lượng từ như tất cả, toàn
thể, mọi và trước vị ngữ thường có thêm phó từ đều, ví dụ:
39] Tất cả mọi người đều biết chuyện ấy.
40] Tất cả mọi nơi họ giấu, nó đều tìm ra.
Cũng để biểu hiện ý khẳng định tuyệt đối này, tiếng Việt còn sử dụng
kiểu câu khẳng định có đại từ phiếm định đi kèm với cũng/chẳng, theo chu
cảnh kết hợp [ ĐTPĐ ...cũng/chẳng]. Theo đó, thay vì nói câu [39] và [40]
người ta sẽ nói các câu [41a, 41b] và [42a, 42b]:
41] a. Chuyện ấy ai cũng biết
b. Chuyện ấy ai chẳng biết.
42] a. Họ giấu đâu, nó cũng tìm ra.
b. Họ giấu đâu [mà] nó chẳng tìm ra.
3.3.3 Câu phủ định tuyệt đối với các từ phiếm định
Tương tự như câu khẳng định tuyệt đối, câu phủ định tuyệt đối bình
thường của tiếng Việt thường được đánh dấu ở chủ ngữ [bằng các lượng từ
toàn thể tất cả, cả, mọi...] hoặc ở vị ngữ [bằng các phó từ hoàn toàn, đều],
ví dụ:
43] Ông ấy giải thích nhưng tất cả mọi người đều không hiểu.
44] Tôi hoàn toàn không biết việc ấy.
Thay vì diễn đạt theo cách này, tiếng Việt cũng sử dụng các đại từ phiếm
định trong sự kết hợp với các phó từ phủ định không /chưa/chẳng [và các
CÚ PHÁP, NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG CỦA ĐẠI TỪ PHIẾM ĐỊNH TRONG TIẾNG
197
tiểu từ tình thái cả/hết], theo chu cảnh kết hợp [không/chưa/chẳng +
ĐTPĐ+ [cả/ hết]]. Theo cách diễn đạt này, câu [43] và [44] có thể được
nói như sau:
45] Ông ấy giải thích nhưng chẳng ai hiểu cả.
46] Tôi không/chẳng biết gì hết.
3.3.4 Câu hỏi có – không với đại từ phiếm định
Xem xét các ví dụ [47] và [48] dưới đây:
47] Em muốn uống gì?
48] Em có muốn uống gì không?
Tương tự các ví dụ [14] và [15] ở trên [mục 2.2.3], gì ở [47] là một đại
từ nghi vấn còn ở [48] có vẻ là một đại từ phiếm định. Để làm rõ hơn chức
năng ngữ dụng của gì ở hai câu này, chúng ta hãy xem xét các câu trả lời
của chúng. Câu hỏi [47] luôn đòi hỏi một câu trả lời có bổ ngữ xác định
[47a] và không chấp nhận các câu trả lời không có bổ ngữ [như 47b] hoặc
có bổ ngữ phiếm chỉ [47c]:
47] Em muốn uống gì?
a . Em muốn uống trà/cà phê.
* b Em muốn uống.
* c. Em muốn uống cái gì đó.
Còn câu [48], ngoài cách trả lời có bổ ngữ như [47a], còn chấp nhận cả
các câu trả lời không có bổ ngữ [48b] hoặc có bổ ngữ phiếm chỉ [48c] :
48] Em có muốn uống gì không?
a. Có, em muốn uống trà/cà phê.
b. Có, em muốn uống.
c. Có, em muốn uống cái gì đó.
Việc câu [48] chấp nhận được các câu trả lời [48b] và [48c] chứng tỏ
tiêu điểm hỏi ở đây không phải [hoặc chủ yếu không phải] là đại từ gì mà
là động từ uống [hoặc, rộng hơn, cả động ngữ muốn uống], được đánh dấu
198
東南亞硏究 25 권 2 호
bằng cặp từ nghi vấn có...không? Nói cách khác gì trong câu [48] không
phải được dùng như một đại từ nghi vấn đánh dấu tiêu điểm hỏi mà là một
đại từ phiếm định. Nó chỉ tham gia vào câu hỏi có - không để chỉ sở chỉ
không xác định [“một cái gì đó”] của bổ ngữ. Vì vậy kiểu câu hỏi có –
không có đại từ phiếm định này không phải là một câu hỏi có – không bình
thường mà là một câu hỏi chuyên biệt dùng để hỏi về các sở chỉ không xác
định. Dưới đây là một số câu hỏi có-không với các đại từ phiếm định có
chức năng tương tự:
49] Có ai biết việc này không? [khác với: Ai biết việc này?]
50] Hôm qua, nó có đi đâu không? [khác với: Hôm qua, nó đi đâu?]
51] Anh đã đến đó bao giờ chưa? [khác với: Anh đến đó bao giở?]
4. Kết luận
Đại từ phiếm định trong tiếng Việt là nhóm đại từ có hình thức và chức
năng cú pháp tương tự đại từ nghi vấn nhưng khác biệt với đại từ nghi vấn
về khả năng phân bố, chức năng ngữ nghĩa và đặc biệt là chức năng dụng
học.
Với tư cách là các đại từ có chức năng chủ yếu là chỉ xuất các sở chỉ
không xác định, các đại từ phiếm định tiếng Việt được sử dụng để tạo
nhiều kiểu câu tiếng Việt có chức năng dụng học chuyên biệt khác nhau
như: câu tồn tại giới thiệu các sở chỉ không xác định, câu khẳng định tuyệt
đối, câu phủ định tuyệt đối và câu hỏi có – không về các sở chỉ không xác
định.
Nắm được các đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của các đại từ
phiếm định, phân biệt chúng với các đại từ nghi vấn, sẽ giúp cho người dạy
và học tiếng Việt hiểu và tạo lập được các kiểu câu khác nhau của tiếng
Việt.
CÚ PHÁP, NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG CỦA ĐẠI TỪ PHIẾM ĐỊNH TRONG TIẾNG
199
Cao Xuân Hạo, [2004], Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng, Nxb
Giáo dục.
Diệp Quang Ban, [2005], Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
Đinh Văn Đức, [1985], Ngữ pháp tiếng Việt – Từ loại. Nxb ĐHTHCN.
Đinh Văn Sơn, [2011], “Một số khả năng chuyển dịch từ phiếm định trong
câu khẳng định tuyệt đối của tiếng Việt sang tiếng Anh”, T/c Khoa
học, ĐHSP TPHCM, số 32/2011.
Hawkins, J.A., [1978] Definiteness and indefiniteness: a study in reference
and grammaticality prediction. London:Croom Helm.
Haspelmath, Martin, [1997], Indefinite pronouns, Oxford: Clarendon.
Mai Ngọc Chừ, [2003], “Từ đâu và những cấu trúc chứa từ đâu trong tiếng
Việt.”, T/c Ngôn ngữ số 3/2003.
Nguyễn Đức Dân, [1987], Lôgich, ngữ nghĩa và cú pháp, Nxb ĐHTHCN.
Nguyễn Đức Dân, [1998], Lôgich và tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
Nguyễn Hồng Cổn, [2003], “Về vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt”,
T/c Ngôn ngữ, số 3/2003.
200
東南亞硏究 25 권 2 호
Abstract
Syntax, semantics and pragamatics of indefinite
영문성함
[영문소속]
Like many other languages, Vietnamese has some pronouns which have
forms similar to interrogative pronouns but which are used as indefinite
pronouns. The similarities in forms between interrogative pronouns and
indefinit pronouns often lead to unclearness in identifying and using these
pronouns. This paper, through a description of the syntactic, semantic and
pragmatic chracteristics of indefinit pronouns, has highlighted the
differences between indefinite and interrogative pronouns in Vietnamese.
Key words: indefinite pronoun, interrogative pronoun, Vietnamese
pronoun, vietnamese grammar
▸ 논문접수일 2015. 08. 10
▸ 논문심사일 2015. 08. 27
▸ 게재확정일 2015. 09. 30
CÚ PHÁP, NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG CỦA ĐẠI TỪ PHIẾM ĐỊNH TRONG TIẾNG
201