Ý nghĩa lịch sử quần trong nhất của phong trào cách mạng 1930 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh

Được đăng: Thứ bảy, 12 Tháng 9 2020 07:54 Lượt xem: 27993

[TGAG] Cách đây 90 năm, với khí thế tiến công thần tốc, nhân dân ta đã làm nên một cao trào cách mạng vô cùng mạnh mẽ - cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh.


Xô Viết Nghệ Tĩnh - Đỉnh cao của phong trào cách mạng 30-31.

Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kịp thời lãnh đạo nhân dân ta vùng lên đấu tranh chống thực dân xâm lược và phong kiến tay sai. Cao trào cách mạng đã diễn ra trên 25 tỉnh, thành trong cả nước, đặc biệt mạnh mẽ từ ngày Quốc tế Lao động 1/5/1930.Ở Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh bùng nổ vào sáng 1/5/1930 với sự tham gia của công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy và nông dân các huyện lân cận đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Xô Viết. Từ tháng 5 - 8/1930, ở vùng Nghệ - Tĩnh đã có đến 97 cuộc bãi công và biểu tình của công nhân và nông dân.Ngày 1/8/1930, công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy tổng bãi công, đánh dấu một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh kịch liệt đã đến. Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ - Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ kéo đến các huyện đường Can Lộc [ngày 4/8], Nam Đàn [ngày 6/8 và 30/8], Thanh Chương [ngày 12/8], Nghi Lộc [ngày 29/8] và lan rộng ra hầu khắp các huyện trong 2 tỉnh.Tuy nhiên phải sang đến tháng 9 phong trào đấu tranh mới lên đến đỉnh cao. Ngày 1/9, 20.000 nông dân huyện Thanh Chương biểu tình đòi bỏ thuế, thả tù chính trị. Lính Pháp nổ súng nhưng những người biểu tình vẫn tiến vào huyện đường, phá nhà giam, thả tù nhân, đốt hồ sơ, sổ sách và dinh trị huyện.Trước sự tấn công ồ ạt của nhân dân, bọn hào lý địa phương phải bỏ chạy. Hầu hết các thôn thuộc huyện Thanh Chương rơi vào tình thế không có chính quyền quản lý. Nhân dân xã Võ Liệt đã tự động đứng ra tổ chức điều hành các công việc trong xã.Ngày 5/9 nông dân huyện Anh Sơn biểu tình ủng hộ nhân dân huyện Thanh Chương với các khẩu hiệu “bãi bỏ thuế thân”, “chia lại ruộng đất”, “thả tù chính trị”. Tiếp đó, trong 2 ngày [5/9 và 7/9] nông dân 2 huyện Diễn Châu, Can Lộc đốt phá nhà giam. Từ ngày 8 đến ngày 11/9 khí thế đấu tranh càng sục sôi khi hàng chục nghìn nông dân huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Can Lộc,…nổi dậy. Phong trào được đẩy lên đỉnh cao đó là cuộc đấu tranh của 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên ngày 12/9 với  khẩu hiện như “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! đả đảo phong kiến”. Đoàn biểu tình xếp thành hàng dài kéo về thành phố Vinh. Thực dân Pháp đã cho máy bay ném bom xả súng liên thanh vào đoàn biểu tình, làm chết 217 người, bị thương 125 người, đốt cháy 177 nóc nhà. Hai làng Lộc Châu và Lộc Hải bị thiêu rụi hoàn toàn. Song điều đó cũng không ngăn cản được phong trào đấu tranh của nông dân, mà càng làm cho cuộc đấu tranh thêm sục sôi khiến cho chính quyền thực dân hết sức lo sợ.Trước sự sụp đổ của chính quyền thực dân và phong kiến ở Nghệ - Tĩnh, các chi bộ và tổ chức Nông hội đỏ đã quản lý và điều hành mọi hoạt động trong lãng xã. Những người cách mạng đã lập ra chính quyền Xô viết – chính quyền Xô viết đầu tiên ở Việt Nam [chính quyền cách mạng sơ khai do giai cấp công nhân lãnh đạo].Chính quyền mới đã ban hành nhiều chính sách mới về chính trị, kinh tế, văn hóa. Về chính trị nhân dân được quyền tự do hội họp, thảo luận và hoạt động trong các tổ chức đoàn thể như Nông hội, Công hội, Đoàn thanh niên cộng sản…Về kinh tế nhân dân được chia ruộng, bãi bỏ các thứ thuế vô lý, bất công, thực hiện giảm tô và xóa nợ cho dân nghèo. Về văn hóa, chính quyền cách mạng đã tổ chức đời sống mới, mở các lớp dạy chữ Quốc ngữ, xóa bỏ các tệ nạn, hủ tục lạc hậu, xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau.Phong trào Xô viết Nghệ -Tĩnh là một sự kiện lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy chỉ tồn tại trong vòng 7 tháng và còn sơ khai nhưng đã để lại những dấu ấn tốt đẹp về một Nhà nước công - nông đầu tiên, chưa có trong tiền lệ lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của người dân mất nước, nô lệ.Thành quả lớn nhất của Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô viết Nghệ -Tĩnh là đã khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân thông qua chính đảng tiên phong của mình, đoàn kết với các tầng lớp nhân dân yêu nước có đủ khả năng đánh đổ nền thống trị của đế quốc, phong kiến tay sai, giải phóng dân tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân.Đây chính là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không chỉ đặt ra vấn đề liên minh công nông, vấn đề ruộng đất và dân cày, mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, vấn đề đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, từng bước tạo thế và lực để dân tộc ta đi tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Từ phong trào này, lần đầu tiên công nhân và nông dân liên minh với nhau trong cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; chính quyền cách mạng ở một số vùng nông thôn đã ra đời. Đánh giá về ý nghĩa lịch sử to lớn của cao trào cách mạng 1930 - 1931, Hồ Chí Minh đã viết: “Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong một biển máu nhưng Xô viết Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này”.Cao trào 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh đã để lại bài học lớn về sức lôi cuốn, tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân của Đảng ta thông qua đường lối, chủ trương, khẩu hiệu đấu tranh đúng đắn, đáp ứng được khát vọng cháy bỏng của nhân dân. Từ đó, rút ra kinh nghiệm lịch sử quý báu là bao giờ nhân dân lao động cảm nhận được những lợi ích của mình trong các chủ trương, chính sách, việc làm cụ thể của giai cấp lãnh đạo, thì họ sẽ tích cực, tự giác tham gia hưởng ứng.Và chính Đảng ta ngay từ đầu đã giúp nhân dân cảm nhận được những lợi ích cơ bản và cấp bách của mình thông qua các chủ trương, khẩu hiệu đúng đắn là giành độc lập thoát khỏi ách nô lệ, giành ruộng đất, nhà máy về tay công - nông, thực hiện những quyền dân sinh, dân chủ cơ bản đầu tiên...; từ đó khơi dậy và thúc đẩy động lực cách mạng trong quần chúng. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, việc hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách, cơ chế phù hợp với xu thế phát triển thời đại và nguyện vọng, lợi ích thiết thực, chính đáng của nhân dân để hình thành động lực, sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp đổi mới đang là nhiệm vụ cấp bách, to lớn của Đảng và Nhà nước ta.90 năm đã trôi qua nhưng khí thế ngất trời của Xô viết Nghệ - Tĩnh những năm 30 thế kỷ XX vẫn luôn bừng cháy trong mỗi người dân yêu nước Việt Nam. Tinh thần Xô viết Nghệ - Tĩnh không chỉ đồng hành cùng nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn tiếp tục giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Ngày nay, tinh thần Xô Viết Nghệ - Tĩnh luôn song hành cùng nhân dân ta vượt qua khó khăn, thách thức để xây dựng Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn.


Thái Bình [tổng hợp]

Khối liên minh đấu tranh của hai giai cấp nông dân và công nhân làm cho đế quốc Pháp vô cùng lúng túng và bị động [Ảnh tư liệu]

Dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, với chính sách văn hóa nô dịch, giáo dục trở thành một công cụ cai trị của chính quyền thực dân. Chính quyền thuộc địa rất hạn chế phát triển giáo dục cả về quy mô và trình độ, trường học chỉ được phép mở ở mức độ hạn chế nhằm phục vụ cho bộ máy cai trị và thực hiện chính sách khai thác thuộc địa. Nhưng ngoài ý muốn của chính quyền thực dân, cùng với quá trình mở rộng khai thác thuộc địa là sự du nhập của văn hoá phương Tây vào Việt Nam.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tầng lớp trí thức tiểu tư sản Việt Nam dần dần hình thành. Nhưng dưới chính sách văn hóa nô dịch và ngu dân, tầng lớp trí thức nhỏ bé, gồm các nhóm trí thức trẻ, nhà nho, giáo viên, học sinh, sinh viên và người làm nghề tự do. Là tầng lớp nhạy cảm với cái mới, nhiều thanh niên trí thức đã sớm tham gia vào các hoạt động yêu nước, truyền bá tư tưởng tiến bộ.

Ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức rõ vai trò của trí thức đối với sự nghiệp cách mạng, đó là cơ sở cho các chính sách đoàn kết - tập hợp, phát huy vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng. Mặt khác, trước sự phát triển của phong trào cách mạng, trí thức ngày càng gắn bó với Đảng, đóng góp hiệu quả vào sự nghiệp chung.

Trong quá trình tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, dưới ách áp bức của thực dân đế quốc, trí thức Việt Nam cùng cảnh ngộ của dân tộc, bị đè nén, khinh rẻ, tư tưởng bị áp chế, tài năng bị vùi dập, quyền lợi hàng ngày bị tước đoạt. Do vậy, trí thức mang trong mình tinh thần dân tộc và cách mạng.

Người khẳng định, sự tham gia của trí thức là nhân tố góp phần quyết định thành công của cách mạng và sớm đề ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ trí thức. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh [năm 1927], Người khẳng định vai trò của tri thức, lý luận và trí thức đối với cách mạng: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động”1. Đúc rút kinh nghiệm từ Cách mạng Pháp, Người chỉ rõ nguyên nhân Cách mạng Pháp thất bại là: “Trong 3 lần cách mệnh, 1789, 1848, 1870, đều vì dân can đảm nhiều, nhưng trí thức ít [tác giả nhấn mạnh], cho nên để tư bản nó lợi dụng”2.

Trong quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc hướng mạnh vào thanh niên trí thức. Mặt khác, là tầng lớp nhạy bén với cái mới, nhiều thanh niên trí thức đã sớm tham gia vào các hoạt động yêu nước, tiếp thu và truyền bá tư tưởng tiến bộ. Đảng ta đã gửi thanh niên ra nước ngoài học tập ở Trường Đại học Phương Đông, dự học các lớp đào tạo về lý luận chính trị, quân sự ở Liên Xô, Trung Quốc, sau đó trở về nước hoạt động.

Từ đây, trí thức có sự phân hóa thành hai bộ phận, một bộ phận theo xu hướng cách mạng vô sản, một bộ phận tiếp tục đi theo lập trường tư sản. Với sự nhạy bén với xu thế tiến bộ của thế giới, đại đa số trí thức không đứng trên lập trường giai cấp cũ của mình mà chuyển sang lập trường vô sản, đã "vô sản hóa".

Trên thực tế, trong việc giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, môi trường chính là tiểu tư sản trí thức. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp tư sản đã giương cao ngọn cờ dân tộc chống đế quốc, liên minh với giai cấp công nhân, giành được tiểu tư sản trí thức cách mạng là giành được quyền lãnh đạo cách mạng3.

Nhà nghiên cứu Trần Huy Liệu đã chỉ rõ: “Năm 1930, việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Dưới lá cờ chỉ đạo của Đảng của giai cấp công nhân, một số lớn những trí thức cách mạng Việt Nam đã vô sản hóa, không đứng trên lập trường giai cấp cũ của mình, mà đứng trên lập trường giai cấp công nhân, phối hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản”4.

Mặc dù bị phân hóa, nhưng tầng lớp trí thức Việt Nam có điểm chung là lòng yêu nước thương nòi, căm ghét ngoại xâm, tích cực tham gia vào sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Nhà nghiên cứu Trần Huy Liệu khẳng định: “Trong đám thanh niên trí thức Việt Nam những năm 1925-1930, trên con đường cứu nước, có người là tín đồ của Mác - Lênin cũng có người là tín đồ của Tôn Dật Tiên, nhưng căn bản là lòng yêu nước, phấn đấu cho nước độc lập, dân tộc được giải phóng”5.

Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò của trí thức và đề cao công tác trí thức. Trong các văn kiện Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1930, xác định trí thức là một bộ phận trong lực lượng quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sách lược vắn tắt của Đảng nêu rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt,... để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp”6.

Trong Cao trào cách mạng 1930-1931, trí thức đã sát cánh cùng công - nông trong các cuộc đấu tranh. Điển hình là sự tham gia của thanh niên, học sinh các trường học, các phong trào đấu tranh của công - nông Nghệ Tĩnh.

Tuy nhiên, sau đó do điều kiện lịch sử và sự quán triệt một cách giáo điều sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản vào việc xây dựng đường lối cách mạng Việt Nam, trong Đảng xuất hiện một số chủ trương về tầng lớp trí thức không phù hợp với thực tế. Do không biết nâng đỡ, không phát triển tinh thần yêu nước để chống đế quốc, mà chú trọng vào cuộc đấu tranh giai cấp, chống cường hào phú nông và địa chủ, đã đẩy trí thức về phe đế quốc.

Tại Luận cương chính trị của Đảng tháng 10/1930 nêu: Trí thức - tiểu tư sản, học sinh có xu hướng quốc gia chủ nghĩa, đại biểu quyền lợi cho cả giai cấp tư bản bản xứ, chứ không chỉ bênh vực quyền lợi riêng cho tiểu tư sản mà thôi. Trong thời kỳ chống đế quốc thì trí thức cũng hăng hái tham gia, nhưng không thể bênh vực quyền lợi cho dân cày được, vì có liên quan với địa chủ. Chủ trương thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ [1930-1931] nêu chủ trương "thanh trừng trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ".

Trung ương Đảng đã sớm nhận ra những nhận thức sai lầm và sửa chữa triệt để, nhanh chóng quán triệt lại tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức. Tháng 11/1930, Ban Thường vụ Trung ương đã có Chỉ thị nêu rõ: Các tầng lớp trí thức và một số sĩ phu, một số trung, tiểu địa chủ có xu hướng cách mạng rõ ràng.

Mặc dù chưa có chính sách đoàn kết trí thức khoa học và hiệu quả, nhưng với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã tập hợp đông đảo trí thức xung quanh mình, trong đó có nhiều nhân sĩ, trí thức có uy tín. Đến phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương 1936-1939 thì học thuyết Mác xít đã được phổ biến rộng rãi và có ảnh hưởng tư tưởng lớn đối với tầng lớp trí thức Việt Nam.

Nhà nghiên cứu Trần Huy Liệu cũng chỉ rõ: “Trong cao trào đấu tranh 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, trí thức đã thấy sức mạnh to lớn của công, nông. Sau cao trào, thực dân Pháp, với chỗ dựa của nó là một số trí thức tư sản và tiểu tư sản, một mặt đề ra một số cải cách giả hiệu ở nghị trường, một mặt làm dấy lên chủ nghĩa lãng mạn tư sản trên địa hạt văn nghệ. Nhưng đến phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương 1936-1939, thì học thuyết Macxit, với sự phổ biến rộng rãi của nó, đã nắm bá quyền trong tư tưởng những người tiến bộ nhất trong tầng lớp trí thức Việt Nam lúc bấy giờ”7.

Qua thực tiễn đấu tranh, đội ngũ đảng viên ngày càng trưởng thành, mặt khác với đường lối đúng đắn và uy tín của mình, Đảng Cộng sản ngày càng tập hợp đông đảo trí thức quanh mình. “Ngày càng vì công tác, vì trách nhiệm, mực trí tuệ của Đảng Cộng sản lên cao với mực trí tuệ chung của đồng bào, và càng ngày số đồng bào trí thức có uy quyền thêm đông đúc theo chủ nghĩa cộng sản, nơi đoàn tụ của trí tuệ Việt Nam”8.

Đảng lôi cuốn đông đảo tầng lớp tiểu tư sản - trí thức tham gia vào phong trào quần chúng đấu tranh, trí thức trở thành một bộ phận trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong cuộc vận động tiến tới Cách mạng Tháng Tám, đông đảo trí thức đã đứng vào mặt trận quần chúng, đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Tầng lớp trí thức đã đoàn kết lại, từng bước có tổ chức của mình. Đông đảo thanh niên, sinh viên, trí thức đã tham gia các phong trào do Việt Minh tổ chức và phát động, góp phần trực tiếp vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Nguyễn Thắng Lợi

PGS, TS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Chú thích:

1,2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.1, tr.259, 274.

3,4,5,7. Xem: Trí thức Việt Nam xưa và nay, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H.2005, tr.30, 31.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H.2000, t. 3,tr.3.

8. Trần Văn Giàu: Tuyển tập, Nxb. Giáo dục, H.2001, tr.1116.

Video liên quan

Chủ Đề