Bài tập tình huống bảo vệ di sản văn hóa năm 2024

Trang Mở đầu Mục đích, yêu cầu và cơ sở pháp lý của việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật I. Mục đích, yêu cầu IIơ sở pháp lý I. Mô tả tình huống và diễn biến tình huống Nội dung tình huống vụ việc xâm phạm di tích kiến trúc – nghệ thuật Đình Trong

  1. Lịch sử làng Hòa Mục và cụm di tích Đình Trong
  2. Diễn biến tình huống II. Xác định mục tiêu và xử lý tình huống III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả IVác phương án giải quyết vụ việc Kiến nghị và kết luận Tài liệu tham khảo Lời cảm ơn

MỞ ĐẦU

Di sản văn hóa Việt Nam tồn tại qua bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc là tài sản quý giá, là niềm tự hào và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, cũng như chứng tỏ sức sống mãnh liệt và bản lĩnh văn hóa của dân tộc. Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ở nước ta. Theo Luật Di sản do Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký lệnh công bố ngày 12/7/2001, được kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa X thông qua:

  • Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, lưu truyền bằng miệng, bằng nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết và nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.
  • Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học bao gồm di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Trong thời đại hội nhập, toàn cầu hóa, sức mạnh của một quốc gia là tổng hòa của năng lực quân sự, thực lực kinh tế và bề dày lịch sử, văn hóa. Có thể nói, các di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh không chỉ góp phần giáo dục nhân dân Việt Nam về truyền thống văn hóa, lịch sử tốt đẹp của cha ông mà còn là một bộ phận hữu cơ của “hình ảnh Việt Nam” đối với bạn bè quốc tế. Với cách hiểu này, hơn bao giờ hết, các cơ quan hữu quan và nhân dân ta có lợi ích và trách nhiệm ra sức bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, các giá trị văn hóa truyền thống của cha ông. Làm tốt việc này cũng chính là góp phần tích cực vào việc quảng bá hình ảnh đẹp đẽ của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Một trong những nhiệm vụ cụ thể mà Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII đã chỉ rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và

Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định 10 nhiệm vụ quan trọng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Điều 34, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã xác định rõ “Nhà nước và xã hội, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo tồn và phát huy tác dụng của di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hóa, các công trình nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh. Nghiêm cấm các hành động lấn chiếm, xâm phạm đến di tích lịch sử, cách mang, các di sản văn hóa, các công trình nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh”. Để bảo vệ và sử dụng có hiệu quả di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh trong việc giáo dục truyền thống dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và lòng tự hào dân tộc, nâng cao kiến thức, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ và văn hóa của nhân dân, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, làm giàu đẹp kho tàng di sản văn hóa dân tộc và góp phần làm phong phú văn hóa thế giới. Tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ tập thể trong việc bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về giá trị và vai trò của di sản văn hóa trong phát triển và huy động nguồn nhân lực, phát huy chủ thể văn hóa vào việc bảo tồn di sản văn hóa giúp cho các thế hệ tương lai có điều kiện kế thừa và sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Đất nước ta, theo thống kê có gần 4 vạn di tích trong đó có 2795 di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia. Rất nhiều trong số hàng vạn di tích ấy đã trở nên nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà còn ở quốc tế. Nhiều di sản văn hóa của chúng ta đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới như: Di tích cố đô Huế, Khu tháp Chăm Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An, Vịnh Hạ Long, Vường Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Nhã nhạc cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên. Xác định rõ những định hướng lớn trong việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa là để tạo lập sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên cũng phải nhận thấy rằng, việc quản lý và bảo tồn di sản văn hóa (gồm di sản văn hóa phi vật thể và phi vật thể) hiện đang gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh việc ổn định, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, sức cám dỗ của đồng tiền trong nền kinh tế thị trường cũng đang khiến cho nhiều di tích văn hóa bị khai thác một cách bừa bãi. Thêm vào đó, do

quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh, việc phát triển du lịch không đồng bộ và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ cũng gây ra những tác động tiêu cực tới môi trường cảnh quan xung quanh các di tích. Ở một số tỉnh, các cấp chính quyền do yếu kém về mặt nhận thức không làm tròn trách nhiệm và quyền hạn của mình trong việc quản lý Nhà nước về di sản văn hóa ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ, đã cho xây dựng nhà văn hóa, khu công viên, bãi đỗ xe ô tô... ngay trong khu vực bảo vệ của di tích đã được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia như: Di tích thành cổ Nhà Mạc (Hòa Bình), Lăng mộ Tuy Lý Vương (Thừa Thiên Huế), di tích Cổ Loa (Hà Nội), Khu di chỉ làng Vạc (Nghệ An), Đình Trong (Hà Nội)... Có thể thấy việc bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa là một công việc lâu dài và khó khăn, đòi hỏi sự tham gia và hợp tác không chỉ của riêng đội ngũ cán bộ làm văn hóa mà còn của toàn thể cán bộ nhân dân trên cả nước. II. Cơ sở pháp lý: Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam - thành quả của cuộc đấu tranh kiên cường, anh dũng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ thì hệ thống pháp luật XHCN của Nhà nước Việt Nam mới bắt đầu hình thành. Tại điều 12, Hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng nâng cao pháp chế XHCN”. Do đó những mối quan hệ quan trọng đã được Nhà nước xác định và đã ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh thì trong mọi trường hợp phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết. Để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới. Hệ thống các văn bản pháp luật về di sản văn hóa cần áp dụng khi giải quyết các vụ việc liên quan đến vi phạm di sản văn hóa, cụ thể:

  • Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký và công bố sắc lệnh số 65 về Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam.
  • Ngày 29/10/1957, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Nghị định 519/TTg về bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh.
  • Luật Di sản Văn hóa được Quốc hội Khóa 10, kỳ họp thứ 9, thông qua ngày 14/6/2001, có hiệu lực từ ngày 01/01/2002 và Nghị định số 92/2002/NĐCP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa.

Cụm di tích Đình Trong (tức đình Hòa Mục), Đình Ngoài và đền Dục Anh là cụm di tích thờ chung 3 vị thành hoàng đó là 3 chị em ruột: Phạm Uyển, Phạm Miễn, Phạm Huy, từng có công giúp Phùng Hưng đánh Cao Chính Bình lấy lại Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay). Cụm Di tích Đình Trong, Đình Ngoài và Đền Dục Anh mang trên mình một bề dày lịch sử trên 300 năm. Cũng giống như nhiều ngôi đình, đền, chùa khác của Việt Nam, nó đã bị phôi phai đi bởi thời gian và bị lưu lạc đi bởi trải qua những chặng đường lịch sử. Cụm di tích đình, đền Hòa Mục vẫn đứng vững trong một không gian thoáng đãng, một cảnh quan khá hữu tình. Với kết cấu theo một quẩn thể di tích, nó đã tạo cho cụm di tích sự gắn bó khăng khít, càng tăng thêm phần giá trị về mặt nội dung lịch sủ, cũng như về kiến trúc nghệ thuật. Cụm di tích Đình Trong, Đình Ngoài và Đền Dục Anh tồn tại được cho đến ngày nay là nhờ sự bảo vệ chu đáo, nhiệt tình của nhiều tầng lớp qua nhiều thế hệ. Nhất là trong thời gian gần đây các cấp lãnh đạo của Đảng, chính quyền của địa phương, kết hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cụ phụ lão của làng đã tích cực tham gia bảo vệ. Với những giá trị đã kể trên của cụm di tích, ngày 22/4/1992, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra quyết định số 490/QĐ xếp hạng cụm di tích Đình Trong - Đình Ngoài - Đền Dục Anh là di tích kiến trúc nghệ thuật. Cụm di tích do UBND quận Cầu Giấy trực tiếp quản lý và bảo vệ theo Quyết định phân cấp quản lý số 2618/QĐ-UB ngày 07/6/1998 của UBND Thành phố Hà Nội. 2. Diễn biến tình huống: 2.Đề xuất của UBND Phường Trung Hòa về việc xây dựng nhà văn hóa: Năm 2005, tập thể lãnh đạo phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy gửi văn bản số 01/LT ngày 11/3/2005 đề nghị đầu tư, xây dựng nhà văn hóa phường Trung Hòa tại khu vực tổ 29, 30 (làng Hòa Mục). Theo báo cáo của UBND phường Trung Hòa, căn cứ vào bản đồ địa chính và hồ sơ được các cấp có thẩm quyền phê duyệt đang lưu giữ tại UBND phường Trung Hòa, vị trí xây dựng nhà văn hóa là khu đất kẹt nằm trong khu dân cư do Hợp tác xã quản lý, giao cho các hộ dân canh tác và đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt xây dựng nhà trẻ theo QĐ số 43/1999/QĐ-UB. Do quá trình đô thị hóa, các hộ dân cư xung quanh khu đất đã xây dựng nhà ở, đổ rác thải, nước thải sinh hoạt gây ô nhiễm môi trường. Các ban, ngành, đoàn thể phường Trung Hòa mong muốn công trình nhà văn hóa được xây dựng sẽ góp phần giữ gìn vệ sinh môi trường trong khu vực, mang lại cho nhân dân một địa điểm rộng rãi để giải trí (đặc biệt đối với người già và trẻ em), ngoài ra còn hỗ trợ thêm cho hoạt động sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của Đình Trong. Công trình nhà văn hóa sẽ được xây dựng phù hợp với kiến trúc và cảnh quan khu vực ngôi Đình.

Trên cơ sở kiến nghị của phường Trung Hòa, UBND quận Cầu Giấy đã chỉ đạo các Phòng Tài nguyên môi trường, Ban Quản lý dự án quận và Phòng VHTT-TDTT tiến hành kiểm tra, khảo sát thực tế. Sau khi xem xét cụ thể, các phòng, ban đã thống nhất với đề nghị của phường Trung Hòa đề xuất với lãnh đạo UBND quận đầu tư xây dựng Nhà văn hóa phường Trung Hòa (NVH) tại khu vực tổ 29, 30 của phường. Đơn vị thi công là Công ty xây dựng dân dụng Hà Nội. 2. Diễn biến quá trình xây dựng Nhà văn hóa: Ngày 10/10/2005, UBND Quận Cầu giấy ra quyết định số 1384/QĐ-UB về việc phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật dự án đầu tư Nhà văn hóa phường Trung Hòa. Công trình đã bắt đầu được xây dựng. Tháng 12/2005, nhân dân Hòa Mục - Trung Hòa đã viết đơn gửi Ban Quản lý di tích và danh thắng Thành phố Hà Nội về việc xây dựng nhà văn hóa nằm trong khu vực bảo vệ I của di tích. Ngày 10/01/2006, Ban Quản lý di tích và danh thắng - Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội phối hợp với Phòng VHTT-TDTT quận Cầu Giấy, UBND phường Trung Hòa tiến hành kiểm tra thực tế tại di tích và căn cứ theo biên bản và bản đồ khoanh vùng bảo vệ di tích năm 1992 thì vị trí thi công công trình NVH Trung Hòa nằm trong khu vực bảo vệ I của di tích Đình Trong. Công trình này được xây dựng không xin ý kiến thỏa thuận của ngành văn hóa. Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội đã có ý kiến tại các công văn số 10/QLDT, ngày 16/01/2006 và số 36/QLDT, ngày 06/02/2006 đề nghị UBND quận Cầu Giấy chỉ đạo UBND phường Trung Hòa cho chuyển dịch nhà văn hóa Trung Hòa ra khỏi phạm vi khu vực bảo vệ I của di tích Đình Trong. Ngày 06/2/2006, Cục Di sản văn hóa - Bộ VHTT nhận được đơn kiến nghị khẩn cấp của những người cao tuổi và nhân dân làng cổ Hòa Mục rất bức xúc, bất bình và phẫn nộ về việc UBND phường Trung Hòa cho xây nhà 2, 3 tầng ở khu đất thuộc phạm vi di tích đã được xếp hạng, án ngữ trước cửa Đình Trong, phá vỡ cảnh quan di tích tâm linh tín ngưỡng của nhân dân và vi phạm Luật Di sản văn hóa. Ngày 13/2/2006, Cục Di sản Văn hóa đã có công văn số 79/DSVH-DT gửi Sở VHTT Thành phố Hà Nội, trong đó đề nghị: “Sở VHTT Hà Nội chỉ đạo các cơ quan chuyên môn kiểm tra sự việc trên, nếu đúng như phản ảnh của nhân dân cần đề xuất phương án xử lý trình UBND Thành phố xem xét, giải quyết theo quy định của Luật Di sản văn hóa”. Đến đây sự việc tưởng chừng như đã rõ ràng, ý kiến chỉ đạo của các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước đối với khu di tích đã được ban hành. Theo thông lệ, các bên liên quan sẽ dừng thi công để bàn bạc và tìm biện pháp tháo gỡ, tránh xâm hại khu di tích và gây lãng phí cho ngân sách Nhà nước (công trình đã được xây xong tầng 1).

đạo các cấp khẩn trương đình chỉ việc thi công và giải quyết dứt điểm vụ việc trên theo quy định của Luật Di Sản Văn hóa, không để tình trạng khiếu kiện kéo dài nhưng UBND quận Cầu Giấy không dừng công trình để xin ý kiến của cơ quan có thẩm quyền và nhân dân sở tại mà vẫn tiếp tục cho xây dựng NVH.