Cái vườn thời xưa gọi là gì
Thời xưa, những người đọc sách hễ có điều kiện thì đều bố trí trong nhà mình một phòng đọc sách, ngày nay người ta hay gọi là thư phòng. Kỳ thực, thư phòng là cách gọi của người hiện đại, còn cổ nhân gọi phòng đọc sách bằng các tên như “Thư trai”, “Thảo đường”, “Lậu thất”… Trong đó “Trai” là từ được cổ nhân yêu thích sử dụng nhất. Ẩn đằng sau tên gọi này là cách sống, nhân sinh quan của người đọc sách thời xưa. (Tranh từ thế kỷ 16, Public Domain)Thi nhân Vương Bột thời nhà Đường viết trong bài “Tặng Lí Thập Tứ” rằng: “Trực đương hoa viện lí, thư trai vọng hiểu khai”, ý nói trong vườn hoa, thư trai mở từ sớm. Văn học gia Viên Tông Đạo thời Minh đặt tên cho thư phòng của mình là “Bạch Tô trai”. Văn sĩ Bồ Tùng Linh triều Thanh gọi thư phòng là “Liêu trai”. Văn học gia triều Minh, Trương Phổ gọi thư phòng là “Thất lục trai”. Vì sao “Trai” trở thành từ thường được sử dụng nhất để đặt tên cho thư phòng? Căn cứ vào “Thuyết văn giải tự” của Hứa Thận thời Đông Hán thì “trai” có nghĩa là “giới khiết”. Nghĩa gốc của “trai” là “trai giới”, là việc làm cho thể xác và tinh thần sạch sẽ trước lễ hiến tế. Nghĩa rộng ra của từ trai là nơi thanh tâm sạch sẽ, u nhã tĩnh mịch, bao hàm cả ý tứ cung kính, ít ham muốn. Chuyên tâm cầu học, tu thân dưỡng tính, thanh tĩnh tao nhã, tuyệt trần thoát tục là cảnh giới mà những người trí thức xưa theo đuổi và mong muốn đạt đến. Cho nên, khi đọc sách đòi hỏi phải giữ tâm thanh tịnh, tư tưởng tập trung và thái độ phải thành kính. “Thất nhã hà tu đại, hoa hương bất tại đa”, phòng không cần phải lớn, hương không cần phải nhiều. Bởi vì cổ nhân hướng tới loại cảnh giới thoát tục này nên khi có được thư phòng thì họ thường bài trí rất đơn giản, mộc mạc, không có quá nhiều đồ vật, đặc biệt là các tạp vật. Thư trai chủ yếu bài trí các loại sách và người đọc sách cần một không gian sạch sẽ, thanh tịnh để đọc sách và cảm thụ nội dung của sách. Thi nhân Lưu Vũ Tích viết trong bài “Lậu thất minh”: “Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh. Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh. Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh”, ý nói núi không nhất thiết phải cao, có Tiên ở là sẽ nổi danh; sông không nhất định phải sâu, có Rồng ở là có linh khí; gian nhà đơn sơ, điều làm cho nó trở nên tốt đẹp chính là đức hạnh của người chủ. Thư trai tuy rằng đơn sơ nhưng có cổ cầm để gảy, có sách quý để xem, tránh được những nhiễu loạn của trần tục là đủ rồi. Thư phòng xưa cũng được cổ nhân gọi là lậu, đường, ốc, cư, lư, thất, quán… Thư phòng của Lưu Vũ Tích được ông đặt tên là “Lậu thất” (Phòng ốc sơ sài). Kỷ Hiểu Lam gọi thư phòng của mình là “Thảo đường” (phòng cỏ). Lục Du lại gọi thư phòng là “Lão học am” (Lều tranh cũ). Thi nhân Bạch Cư Dị gọi nơi ở và nơi đọc sách của ông là “Thảo ốc” (nhà cỏ, nhà tranh). Thảo ốc của Bạch Cư Dị rất đơn sơ, mộc mạc, gỗ làm nhà được chặt và gọt bằng rìu, tường làm bằng bùn đất không sơn vôi trắng, không tạo hoa văn, bậc thềm làm bằng đá, lấy trúc làm mành. Cổ nhân chẳng những không cầu thư phòng xa hoa ra sao mà còn không quan trọng thư phòng phải to lớn thế nào. Văn học gia Lục Du thời Nam Tống tả về thư phòng của ông chỉ có thể chứa được một chiếc kỷ tre nhỏ. Dù thư phòng nhỏ như vậy nhưng ông vẫn rất hài lòng. Tư Mã Quang, nhà sử học nổi danh thời Tống, mặc dù có thư phòng nhưng cũng rất đơn sơ mộc mạc, thậm chí là xuề xòa. Văn nhân Quy Hữu Quang thời nhà Minh cũng có thư phòng rất nhỏ. Ông tả: “Thất cận phương trượng, khả dung nhất nhân cư”, phòng chỉ vẻn vẹn một trượng vuông, có thể chứa được một người. Cho dù là thư phòng của hoàng gia cũng không phải là càng rộng càng tốt. Trong Dưỡng Tâm Điện của Tử Cấm Thành có thư phòng “Tam Hy đường” của vua Càn Long nhà Thanh, thư phòng này cũng chỉ rộng chừng tám mét vuông. Tuy rằng cổ nhân không theo đuổi thư phòng xa hoa rộng lớn nhưng lại rất chú trọng đến hoàn cảnh của thư phòng. Bên ngoài thư phòng, cổ nhân thường trồng các loại cây xanh và cây hoa như lan, quế, trúc khiến cho hoàn cảnh xung quanh trở nên rất thanh nhã. Bên ngoài “Lậu thất” của Lưu Vũ Tích hay “Thảo đường” của Bạch Cư Dị đều được bố trí phong cảnh vô cùng tươi đẹp. Về cách bố trí bên trong thư phòng, cổ nhân theo đuổi chữ “Nhã” (tao nhã, không thô tục). Trong phòng thường là có một bàn, một ghế, một đèn, một tủ và sách bút nghiên mực… Ngoài ra, tùy điều kiện gia đình và diện tích phòng, chủ nhân có thể đặt thêm vào đó sạp (giường nhỏ), nhạc khí, hương khí, tranh chữ, châu ngọc và bồn hoa. Tuy nhiên, cách bố trí phải đảm bảo khiến thư phòng lịch sự, tao nhã và thoát tục. Trong thư phòng, thứ quan trọng nhất là sách. Sách thường được cổ nhân cất trong rương, hộp, tủ, tráp, két. Những dụng cụ này thường được làm bằng chất liệu gỗ, trúc và da. Đựng sách bằng tráp (hộp) là phương thức truyền thống của người đọc sách thời xưa vì nó thuận tiện cho việc mang theo bên mình. Có thể nói, thư phòng đã trở thành nơi khởi điểm trên con đường theo đuổi tri thức của người đọc sách xưa, cũng là nơi tìm kiếm con đường trở về của họ. Chính bởi vậy, văn hóa thư phòng được người xưa vô cùng xem trọng và gìn giữ. Theo Vision Times tiếng Trung Xem thêm:
Mời xem video:
Nhằm để ghi nhớ lại những từ mà ngày xưa người Saigon / Miền Nam hay dùng như: Mèn ơi, Nghen, Hén, Hen, Tà Tà, Thềm ba, Cà rịch cà tang, tàn tàn,… và những câu thường dùng như: Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu cứng cổ, tháng mười mưa thúi đất, cái thằng trời đánh thánh đâm... Xin nhờ mấy Anh Chị comment những từ nào còn nhớ để Trường góp nhặt ngỏ hầu lưu lại những tiếng gọi, câu nói thân thương của người Saigon và miền Nam trước đây, e rằng một ngày nào đó nó sẽ mai một… Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc di cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Saigon, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới… và bài Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ, hình ảnh cô gái chạy xe chậm rãi tỏ ra bất cần mấy anh chàng theo sau năn nỉ làm quen không biết đã bao nhiêu lần làm bâng khuâng xao xuyến lòng người nghe. Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nó nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghe thấy, người Bắc nhập cư nói từ “Xạo ke” dễ hơn là nói “Ba xạo”, chính điều dó đã làm tăng thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn. Chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những MC như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạn mà các Anh Chị đã từng nghe trên các Video chương trình ca nhạc, kể chuyện, …. Đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văn nói của Saigon miền Nam nếu dùng google dịch thì “qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy” (câu gốc: "Hôm qua qua nói qua qua mà qua hỏng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua") nó dịch ra như vầy “through through through through this gaping expression too” Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu chết… Hay như câu “giỏi dữ hôn” thì google dịch cũng ngất ngư con lạc đà… Trong văn nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật để tăng cấp độ nhấn mạnh: như bá láp bá xàm, cà chớn cà cháo, sai bét bèng beng (từ bèng beng không có nghĩa),… sai đứt đuôi con nòng nọc,… chắc là phải cả pho sách mới ghi lại hết… Phong cách sử dụng từ như vậy Trường mong sẽ có một dịp nào đó viết một bài về nó. Hà! ai người miền Nam thì cũng hiểu câu này: “thôi tao chạy trước tụi bây ở lại chơi vui hén”, ở đây chạy cũng có nghĩa là đi về, chứ không phải là động từ “chạy = to run” như tiếng Anh. Hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng Miền Nam thì nhiều vô kể ví dụ: Khi nghe ai nói chuyện lập đi lập lại mà không chán thì người nghe ca một đoạn: ”Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi!”, hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi: “Đêm nay ai đưa em về!” người ngoại quốc ai không biết cứ tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình, như khi nghe ai nói chuyên mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói: “Xưa rồi diễm…” với cái giọng mà âm “…i…ễ…m…” kéo dài tha thướt. Tuy nhiên, do những từ này được trình bày bằng chữ nghĩa nên cách xài nhấn âm, lên giọng của người Miền Nam không thể biểu lộ hết cái hay của nó, ví dụ như riêng câu: “thằng cha mầy, làm gì mà mồ hôi đổ ướt hết áo dậy?” cụm từ “thằng cha mầy” kéo dài hơi lại có nghĩa là gọi yêu thương chứ không phải la mắng, tương tự khi mấy cô gái nguýt (nói): ”Xí! Hổng chịu đâu”, ”Xí! Cha già dịch nè!”, ”Sức mấy! Ông nói gì tui ưa hổng nổi nha!”, “Cha già khó ưa!” với cách nhấn giọng thì nghe rất dễ thương và dịu dàng nhưng khó gần lắm à nghen, nhưng đến khi nghe câu ”Tui nói lần cuối, tui hổng giỡn chơi với ông nữa đâu đó nghen! ” thì coi chừng… liệu hồn đó. Thật ra không phải người Saigon ai cũng xài hết mấy từ này, chỉ có người bình-dân mới dám xài từ như Mả cha, Tổ mẹ để kèm theo câu nói mà thôi. Dân nhà trí thức ít ai được Ba Má cho nói, nói ra là vả miệng không kịp ngáp luôn, giáo dục ngày xưa trong gia đình rất là khó, nhất là mấy người làm bên nghề giáo dạy con càng khó dữ nữa. Ra đường nghe mấy đứa con nít nói “ĐM” thậm chí còn không hiểu nó nói gì, về nhà hỏi lại chữ đó là gì, chưa gì đã bị cấm tiệt không được bắt chước, lúc đó chỉ nghe Ba Má trả lời: “Đó là nói bậy không được bắt chước đó nghen!”. Chưa kể tới chuyện người lớn đang ngồi nói chuyện mà chạy vô xầm xập hỏi thì cũng bị la rầy liền: “Chỗ người lớn nói chuyện không được chen vô nhớ chưa?”. Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Saigon dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Game Show chỉ còn nghe giọng miền Nam với câu nói: “Mời anh trả lời ạ” “Các bạn có thấy đúng không ạ”, ạ… ạ …ạ… cái gì cũng ạ….làm tui thấy lạ. Thêm nữa, bây giờ mà xem phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này, khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, coi phim nghe thấy nó lạ lạ làm sao đâu á… Tò te tí te chút, mong rằng mọi người khi đọc những từ này sẽ hồi tưởng lại âm hưởng của Saigon một trời thương nhớ! Chân thành cám ơn những đóng góp của mọi người. Trân trọng, Nguyễn Cao Trường 1. A-ma-tưa(ơ) = hổng chuyên nghiệp (gốc Pháp Amateur) TLKV sưu tầm |