Sự khác nhau giữa chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng

Quản trị Logistics và Quản trị Chuỗi cung ứng là gì và khác nhau như thế nào?

Quản trị Chuỗi cung ứng [Supply Chain Management] là sự phối hợp của sản xuất, tồn kho, địa điểm và vận chuyển giữa các thành viên trong chuỗi cung ứng nhằm đáp ứng nhịp nhàng và hiệu quả các nhu cầu của thị trường.

Logisticscó nguồn gốc từ Latin – Logic [nghĩa là hợp lý], khái niệm Quản trị Logistics được hiểu là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.

Sự khác biệt giữa chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị

Chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị Chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị đều là mạng lưới các công ty / quy trình kết hợp với nhau để cung cấp một ản phẩm có chất

Chuỗi cung ứng là gì?

Chuỗi cung ứng là sự liên kết các công ty nhằm đưa sản phẩm hay dịch vụ vào thị trường [Lambert và Cooper, 2000]. Như vậy, chuỗi cung ứng bao gồm mọi công đoạn có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và phân phối nhằm thực hiện các chức năng thu mua nguyên liệu, chuyển đổi nguyên liệu thành bán sản phẩm và thành phẩm, phân phối chúng cho khách hàng [Ganeshan và Terry, 1995]. Chuỗi cung ứng không chỉ gồm nhà sản xuất hay nhà cung cấp, mà còn bao gồm nhà vận chuyển, kho, người bán lẻ và bản thân khách hàng [Chopra và Peter, 2001].

Ngày nay, để cạnh tranh thành công trong bất kỳ môi trường kinh doanh nào, các doanh nghiệp không chỉ tập trung vào hoạt động của riêng mình mà phải tham gia vào công việc kinh doanh của nhà cung cấp cũng như khách hàng của nó. Bởi lẽ, khi doanh nghiệp muốn đáp ứng sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng, họ buộc phải quan tâm nhiều hơn đến dòng dịch chuyển nguyên vật liệu; cách thức thiết kế, đóng gói sản phẩm và dịch vụ của nhà cung cấp; cách thức vận chuyển, bảo quản sản phẩm hoàn thành và những mong đợi thực sự của người tiêu dùng hoặc khách hàng cuối cùng vì thực tế là có nhiều doanh nghiệp có thể không biết sản phẩm của họ được sử dụng như thế nào trọng việc tạo ra sản phẩm cuối cùng cho khách hàng.

Cạnh tranh có tính toàn cầu ngày càng khốc liệt, chu kỳ sống của sản phẩm mới ngày càng ngắn hơn, mức độ kỳ vọng của khách hàng ngày càng cao hơn đã thúc ép các doanh nghiệp phải đầu tư và tập trung nhiều vào chuỗi cung ứng của nó. Thêm vào đó, những tiến bộ liên tục và đổi mới trong công nghệ truyền thông và vận tải [ví dụ, truyền thông di động, internet và phân phối hàng qua đêm], đã thúc đẩy sự phát triển không ngừng của chuỗi cung ứng và những kỹ thuật để quản lý nó.

Trong một chuỗi cung ứng điển hình, doanh nghiệp mua nguyên vật liệu từ một hoặc nhiều nhà cung cấp; các bộ phận, chi tiết hoặc thậm chí sản phẩm sau đó được sản xuất ở một hay một số nhà máy, và được vận chuyển đến nhà kho để lưu trữ ở giai đoạn trung gian, cuối cùng đến nhà bán lẻ và khách hàng. Vì vậy, để giảm thiểu chi phí và cải thiện mức độ phục vụ, các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả phải xem xét đến sự tương tác ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng, cũng được xem như mạng lưới hậu cần, bao gồm các nhà cung cấp, các trung tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm phân phối, và các cửa hàng bán lẻ, cũng như nguyên vật liệu, tồn kho trong quá trình sản xuất và sản phẩm hoàn thành dịch chuyển giữa các cơ sở.

Có rất nhiều định nghĩa về quản trị chuỗi cung ứng, chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các doanh nghiệp tham gia, một cách trực tiếp hay gián tiếp, trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng, thể hiện sự dịch chuyển nguyên vật liệu xuyên suốt quá trình từ nhà cung cấp ban đầu đến khách hàng cuối cùng. Mục đích then chốt của bất kỳ chuỗi cung ứng nào là nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng trong tiến trình tạo ra lợi nhuận cho chính doanh nghiệp. Các hoạt động chuỗi cung ứng bắt đầu với đơn đặt hàng của khách hàng và kết thúc khi khách hàng thanh toán đơn đặt hàng của họ.

Thuật ngữ chuỗi cung ứng gợi nên hình ảnh sản phẩm hoặc cung cấp dịch chuyển từ nhà cung cấp đến nhà sản xuất rồi đến nhà phân phối và đến nhà bán lẻ đến khách hàng dọc theo chuỗi cung ứng. Điều quan trọng là dòng thông tin, sản phẩm và tài chính dọc cả hai hướng của chuỗi này. Trong thực tế, nhà sản xuất có thể nhận nguyên liệu từ một số nhà cung cấp và sau đó cung ứng đến nhà phân phối. Vì vậy, đa số các chuỗi cung ứng thực sự là các mạng lưới. Đây chính là lý do chuỗi cung ứng được xem như là mạng lưới hậu cần.

Sự khác biệt giữa Logistics và quản lý chuỗi cung ứng

  • 2019

Tất cả các hoạt động, liên quan đến việc tìm nguồn cung ứng, mua sắm, chuyển đổi và quản lý hậu cần, thuộc quản lý chuỗi cung ứng . Trên hết, nó bao gồm sự phối hợp và hợp tác với các bên như nhà cung cấp, trung gian, nhà phân phối và khách hàng. Quản lý hậu cần là một phần nhỏ của Quản lý chuỗi cung ứng liên quan đến việc quản lý hàng hóa một cách hiệu quả.

Quản lý chuỗi cung ứng, đó là một thuật ngữ rộng hơn để chỉ sự kết nối, ngay từ các nhà cung cấp đến người tiêu dùng cuối cùng.

Nó đã được nhận thấy rằng có một sự thay đổi mạnh mẽ trong cách thức kinh doanh được tiến hành nhiều năm trước và bây giờ. Do sự cải tiến trong công nghệ, dẫn đến sự phát triển của tất cả các lĩnh vực kinh doanh chính. Quản lý chuỗi cung ứng cũng phát triển như một sự cải tiến so với Quản lý hậu cần, từ những năm trước. Kiểm tra bài viết này để hiểu sự khác biệt giữa Quản lý Hậu cần và Quản lý Chuỗi cung ứng.

Biểu đồ so sánh

Cơ sở để so sánhQuản lý hậu cầnQuản lý chuỗi cung ứng
Ý nghĩaQuá trình tích hợp việc di chuyển và bảo trì hàng hóa trong và ngoài tổ chức là Logistics.Sự phối hợp và quản lý các hoạt động của chuỗi cung ứng được gọi là Quản lý chuỗi cung ứng.
Mục tiêuSự hài lòng của khách hàngLợi thế cạnh tranh
Sự phát triểnKhái niệm về Logistics đã được phát triển trước đó.Quản lý chuỗi cung ứng là một khái niệm hiện đại.
Có bao nhiêu tổ chức có liên quan?Độc thânNhiều
Một trong mộtQuản lý hậu cần là một phần của quản lý chuỗi cung ứng.Quản lý chuỗi cung ứng là phiên bản mới của Quản lý hậu cần.

Định nghĩa quản lý hậu cần

Quy trình quản lý tích hợp sự chuyển động của hàng hóa, dịch vụ, thông tin và vốn, ngay từ khi tìm nguồn cung ứng nguyên liệu thô, cho đến khi đến tay người tiêu dùng cuối cùng được gọi là Quản lý Hậu cần. Mục tiêu đằng sau quá trình này là cung cấp đúng sản phẩm với chất lượng phù hợp vào đúng thời điểm, đúng nơi, đúng giá với khách hàng cuối cùng. Các hoạt động logistic được chia thành hai loại chính là:

  • Logistics trong nước : Các hoạt động liên quan đến mua sắm vật liệu, xử lý, lưu trữ và vận chuyển
  • Logistics bên ngoài : Các hoạt động liên quan đến việc thu thập, bảo trì và phân phối hoặc giao hàng cho người tiêu dùng cuối cùng.

Ngoài ra, các hoạt động khác là nhập kho, đóng gói bảo vệ, thực hiện đơn hàng, kiểm soát hàng tồn kho, duy trì trạng thái cân bằng giữa cung và cầu, quản lý kho. Điều này sẽ giúp tiết kiệm chi phí và thời gian, sản phẩm chất lượng cao, v.v.

Định nghĩa quản lý chuỗi cung ứng

Quản lý chuỗi cung ứng [SCM] là một chuỗi các hoạt động được kết nối với nhau liên quan đến việc chuyển đổi và chuyển đổi nguyên liệu thô thành hàng hóa thành phẩm cho đến khi đến tay người dùng cuối. Đó là kết quả của những nỗ lực của nhiều tổ chức đã giúp làm cho chuỗi hoạt động này thành công.

Quản lý chuỗi cung ứng

Các tổ chức này có thể bao gồm các công ty mà tổ chức hiện đang làm việc như đối tác hoặc nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà bán buôn, nhà bán lẻ và người tiêu dùng. Các hoạt động có thể bao gồm tích hợp, tìm nguồn cung ứng, mua sắm, sản xuất, thử nghiệm, hậu cần, dịch vụ khách hàng, đo lường hiệu suất, vv

Quản lý chuỗi cung ứng có cách tiếp cận đa chiều, quản lý dòng nguyên liệu thô và công việc đang tiến hành [bán thành phẩm] trong tổ chức và sản phẩm cuối cùng bên ngoài tổ chức cho đến khi đến tay người tiêu dùng cuối cùng, hoàn toàn nhấn mạnh yêu cầu của khách hàng.

Sự khác biệt giữa chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị

  • 2019

Chuỗi cung ứng đề cập đến sự tích hợp của tất cả các hoạt động liên quan đến quá trình tìm nguồn cung ứng, mua sắm, chuyển đổi và hậu cần. Mặt khác, chuỗi giá trị ngụ ý một loạt các hoạt động kinh doanh trong đó tiện ích được thêm vào hàng hóa và dịch vụ được cung cấp bởi công ty để nâng cao giá trị của khách hàng.

Chuỗi cung ứng là sự kết nối của tất cả các chức năng bắt đầu từ việc sản xuất nguyên liệu thô thành sản phẩm hoàn chỉnh và kết thúc khi sản phẩm đến tay khách hàng cuối cùng. Mặt khác, Chuỗi giá trị là một tập hợp các hoạt động tập trung vào việc tạo hoặc thêm giá trị cho sản phẩm.

Hai mạng này giúp cung cấp sản phẩm chất lượng cho khách hàng với giá cả hợp lý. Hầu hết các chuỗi cung ứng thời gian được nối liền với chuỗi giá trị. Trong bài viết này, chúng tôi đã tổng hợp tất cả sự khác biệt đáng kể giữa chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị. Có một cái nhìn.

Biểu đồ so sánh

Cơ sở để so sánhChuỗi cung ứngChuỗi giá trị
Ý nghĩaViệc tích hợp tất cả các hoạt động liên quan đến mua sắm, chuyển đổi và hậu cần của sản phẩm được gọi là Chuỗi cung ứng.Chuỗi giá trị được định nghĩa là chuỗi các hoạt động, làm tăng giá trị cho sản phẩm.
Có nguồn gốc từQuản lý vận hànhQuản lý kinh doanh
Khái niệmBăng tảiGiá trị gia tăng
Trình tựYêu cầu sản phẩm - Chuỗi cung ứng - Khách hàngYêu cầu khách hàng - Chuỗi giá trị - Sản phẩm
Mục tiêuSự hài lòng của khách hàngĐạt được lợi thế cạnh tranh

Định nghĩa chuỗi cung ứng

Chuỗi cung ứng là sự kết nối của tất cả các bên, tài nguyên, doanh nghiệp và các hoạt động liên quan đến tiếp thị hoặc phân phối mà qua đó sản phẩm đến tay người dùng cuối. Nó tạo ra một liên kết giữa các đối tác kênh như nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà bán buôn, nhà phân phối, nhà bán lẻ và khách hàng. Nói một cách đơn giản, nó bao gồm dòng chảy và lưu trữ của nguyên liệu thô; bán thành phẩm và hàng hóa thành phẩm từ điểm xuất phát đến điểm đến cuối cùng tức là tiêu thụ.

Quá trình lập kế hoạch và kiểm soát các hoạt động của chuỗi cung ứng được gọi là Quản lý chuỗi cung ứng. Nó là một hệ thống đa chức năng quản lý sự di chuyển của nguyên liệu thô, trong tổ chức và sự di chuyển của hàng hóa thành phẩm ra khỏi công ty cùng với sự hài lòng của khách hàng đầy đủ bên cạnh nhau. Các hoạt động sau đây được bao gồm trong chuỗi cung ứng:

  • Hội nhập
  • Chia sẻ thông tin
  • Phát triển sản phẩm
  • Tạp vụ
  • Sản xuất
  • Phân phối
  • Dịch vụ cho khách hàng
  • Phân tích hiệu suất

Định nghĩa chuỗi giá trị

Chuỗi giá trị đề cập đến phạm vi hoạt động làm tăng giá trị ở mỗi bước duy nhất trong việc thiết kế, sản xuất và cung cấp một sản phẩm chất lượng cho khách hàng. Phân tích chuỗi giá trị được sử dụng để đánh giá các hoạt động trong và xung quanh tổ chức và liên quan đến khả năng cung cấp giá trị đồng tiền, hàng hóa và dịch vụ.

Khái niệm Phân tích chuỗi giá trị được Michael Porter phát triển lần đầu tiên vào năm 1985 trong cuốn sách nổi tiếng của ông. Theo ông, hai bước chính liên quan đến phân tích chuỗi giá trị là:

  • Xác định các hoạt động cá nhân
  • Phân tích giá trị gia tăng trong từng hoạt động và liên quan đến sức mạnh cạnh tranh của công ty.

Porter chia các hoạt động kinh doanh thành hai loại chính, với mục đích Phân tích chuỗi giá trị:

  • Hoạt động chính:
      • Logistics nội địa : Nó liên quan đến việc tiếp nhận, lưu trữ và phân phối đầu vào.
      • Hoạt động sản xuất : Chuyển đổi đầu vào thành thành phẩm.
      • Logistics bên ngoài : Nó liên quan đến việc thu thập, lưu trữ và phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng.
      • Tiếp thị và bán hàng : Tham gia vào các hoạt động tạo ra nhận thức trong công chúng về sản phẩm.
      • Dịch vụ : Tất cả những hoạt động làm tăng giá trị của sản phẩm hoặc dịch vụ.
  • Hoạt động hỗ trợ : Những hoạt động này giúp các hoạt động chính và bao gồm mua sắm, phát triển công nghệ, quản lý nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng.

Sự khác nhau giữa Quản trị logistics [Logistics Management] và Quản trị chuỗi cung ứng [Supply Chain Management -SCM]

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [68.56 KB, 4 trang ]

Sự khác nhau giữa Quản trị logistics [Logistics Management] và Quản trị chuỗi cung ứng
[Supply Chain Management -SCM]
Quản trị logistics [Logistics Management]
Quản trị logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực
hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những
thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Hoạt động của quản trị logistics cơ bản bao gồm quản trị vận tải hàng hóa xuất và nhập,
quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện đơn hàng, thiết kế mạng lưới logistics,
quản trị tồn kho, hoạch định cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. Ở một số mức
độ khác nhau, các chức năng của logistics cũng bao gồm việc tìm nguồn đầu vào, hoạch
định sản xuất, đóng gói, dịch vụ khách hàng. Quản trị logistics là chức năng tổng hợp kết
hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động logistics cũng như phối hợp hoạt động logistics với
các chức năng khác như marketing, kinh doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin.
Quản trị chuỗi cung ứng [Supply Chain Management -SCM]
Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến
tìm nguồn cung cấp, mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản trị logistics. Ở mức
độ quan trọng, quản trị chuỗi cung ứng bao gồm sự phối hợp và cộng tác của các đối tác
trên cùng một kênh như nhà cung cấp, bên trung gian, các nhà cung cấp dịch vụ, khách
hàng. Về cơ bản, quản trị chuỗi cung ứng sẽ tích hợp vấn đề quản trị cung cầu bên trong
công ty và giữa các công ty với nhau. Quản trị chuỗi cung ứng là một chức năng tích hợp
với vai trò đầu tiên là kết nối các chức năng kinh doanh và các qui trình kinh doanh chính
yếu bên trong công ty và của các công ty với nhau thành một mô hình kinh doanh hiệu quả
cao và gắn bó. Bên cạnh đó, còn là những hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự phối hợp về
qui trình và hoạt động của các bộ phận marketing, kinh doanh, thiết kế sản phẩm, tài chính,
công nghệ thông tin.
Vài khác biệt giữa Quản trị logistics [Logistics Management-LM] và Quản trị chuỗi cung
ứng [Supply Chain Management -SCM]:

- Về tầm ảnh hưởng: LM có tầm ảnh hưởng ngắn hạn hoặc trung hạn, còn SCM có tầm ảnh
hưởng dài hạn.


- Về mục tiêu: LM mong muốn đạt đến giảm chi phí logistics nhưng tăng được chất lượng
dịch vụ còn SCM lại đặt mục tiêu ở giảm được chi phí toàn thể dựa trên tăng cường khả
năng cộng tác và phối hợp, do đó tăng hiệu quả trên toàn bộ hoạt động LM.

- Về công việc: LM quản trị các hoạt động bao gồm vận tải, kho bãi, dự báo, đơn hàng,
giao nhận, dịch vụ khách hàng... Còn SCM bao gồm tất cả các hoạt động LM và quản trị
nguồn cung cấp, sản xuất, hợp tác và phối hợp các đối tác, khách hàng...

- Về phạm vi hoạt động: LM chủ yếu quản trị bên trong doanh nghiệp còn SCM quản trị cả
bên trong lẫn bên ngoài.

Phân biệt giữa 1PL, 2PL, 3PL và 4PL

Khi qui mô hoạt động của các nhà sản xuất ngày càng lớn ở mức độ toàn cầu với hàng trăm
xưởng sản xuất và nhiều hơn nữa những điểm phân phối trên khắp thế giới thì sự chuyên
nghiệp và chuyên biệt trong lĩnh vực Logistics và SCM trở nên bức thiết đối với các tập
đoàn sản xuất lớn nhằm : "Dành cho mình những công việc mà mình sẽ thực hiện tốt hơn
những người khác và chuyển giao phần việc mà người khác làm tốt hơn mình". Từ đó các
2PL, 3PL và nay là 4PL ra đời nhằm đảm đương việc "SMC" cho các tập đoàn lớn này, sau
đây là một số các khái niệm cô đọng.

1PL [First Party Logistics hay Logistics tự cấp]: Là những người sở hữu hàng hóa tự mình
tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân. Các công ty
này có thể sở hữu phương tiện vận tải, nhà xưởng, thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực khác
bao gồm cả con người để thực hiện các hoạt động logistics.

2PL [Second Party Logistics hay Cung cấp dịch vụ logistics bên thứ hai]: Đây là một chuỗi
những người cung cấp dịch vụ cho hoạt động đơn lẻ cho chuỗi hoạt động logistics nhằm
đáp ứng nhu cầu của chủ hàng nhưng chưa tích hợp với hoạt động logistics [chỉ đảm nhận
một khâu trong chuỗi logistics]. 2PL là việc quản lý các hoạt động truyền thống như vận

tải, kho vận, thủ tục hải quan, thanh toán,...
Khái niệm 3PL
Dịch Vụ Logistics Thứ Ba, hay còn gọi là 3PL, là việc thuê ngoài các hoạt động
logistics của một công ty. Nhà Cung Cấp Dịch Vu Logistics Thứ Ba là một công ty cung
cấp các dịch vụ logistics mang tính chiến thuật đa chiều cho khách hàng. Những công ty
này sẽ hỗ trợ thúc đẩy dòng chảy thiết bị và nguyên liệu từ nhà cung ứng đến nhà sản xuất,
và sản phẩm cuối cùng từ nhà sản xuất đến nhà phân phối và nhà bán lẻ.
Các dịch vụ mang tính chiến thuật này thường cơ bản gồm vận tải, dịch vụ kho bãi,
gom hàng nhanh [cross-docking], quản lí tồn kho, đóng gói hay giao nhận vận tải.
3PL [Cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba hay logistics theo hợp đồng]: Là người thay
mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics cho từng bộ phận như: thay
mặt cho người gửi hàng thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu, cung cấp chứng từ giao nhận -
vận tải và vận chuyển nội địa hoặc thay mặt cho người nhập khẩu làm thủ tục thông quan
hàng hóa và đưa hàng đến điểm đến quy định... 3PL bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau, kết
hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hoá, xử lý thông tin. có tính tích hợp vào dây
chuyền cung ứng của khách hàng.
3PL là các hoạt động do một công ty cung cấp dịch vụ logistics thực hiện trên danh nghĩa
của khách hàng dựa trên các hợp đồng có hiệu lực tối thiểu là một năm hoặc các yêu cầu
bất thường.

Sử dụng 3PL là việc thuê các công ty bên ngoài để thực hiện các hoạt động logistics, có thể
là toàn bộ quá trình quản lý logistics hoặc chỉ là một số hoạt động có chọn lọc.
Các công ty sử dụng 3PL và nhà cung cấp dịch vụ logistics có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau nhằm thực chia sẻ thông tin, rủi ro, và các lợi ích theo một hợp đồng dài hạn.

4PL [Cung cấp dịch vụ logistics thứ tư hay logistics chuỗi phân phối, hay nhà cung cấp
logistics chủ đạo - Lead Logistics Providers - LLP]: Đây là người hợp nhất, gắn kết các
nguồn lực, tiềm năng và cơ sở vật chất kỹ thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế,
xây dựng và vận hành các giải pháp chuỗi logistics
4PL là việc quản lý và thực hiện các hoạt động logistics phức tạp như quản lý nguồn lực,

trung tâm điều phối kiểm soát, các chức năng kiến trúc và tích hợp các hoạt động logistics.

4PL có liên quan với 3PL và được phát triển trên nền tảng của 3PL nhưng bao gồm lĩnh
vực hoạt động rộng hơn, gồm cả các hoạt động của 3PL, các dịch vụ công nghệ thông tin,
và quản lý các tiến trình kinh doanh. 4PL được coi như một điểm liên lạc duy nhất, là nơi
thực hiện việc quản lý, tổng hợp tất cả các nguồn lực và giám sát các chức năng 3PL trong
suốt chuỗi phân phối nhằm vươn tới thị trường toàn cầu, lợi thế chiến lược và các mối
quan hệ lâu bền.

Tuy nhiên 4PL là khái niệm tương đối mới nên sự phân biệt giữa 3PL và 4 PL còn nhiều
bàn cãi nhưng một cách tổng quat ta có thể thấy mặc dù cả hai hoạt động 3PL và 4PL nói
chung đều có điểm giống là nằm trong một chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào, hàng hóa
đầu ra, có sự hợp tác của nhiều dịch vụ và hoạt động kèm theo. 4PL cũng cần phải thực
hiện một số chức năng của 3PL ngay trong mạng lưới chuỗi cung ứng của khách hàng [vì
hầu hết các 4PL đều từ 3PL đi lên] nhưng có thể phân biệt sự khác nhau giữa chúng.

Đối với 3PL: Cung cấp dịch vụ mang tầm chiến thuật hoặc cao hơn nữa là mang tính chiến
thuật đa chiều cho khách. Những công ty này sẽ hỗ trợ thúc đẩy dòng chảy thiết bị và
nguyên liệu từ nhà cung ứng đến nhà sản xuất, và sản phẩm cuối cùng từ nhà sản xuất đến
nhà phân phối và nhà bán lẻ. Tuy nhiên hoạt động mang tính chiến thuật này không thể là
giá trị cốt lõi của khách hàng, và thường được quản lí bằng cách thuê ngoài để đảm bảo chi
phí thấp nhất. Nhưng quản lí các hoạt động logistics riêng lẻ ấy với mục đích giảm chi phí
nhưng thực tế lại làm tăng chi phí, hoặc làm giảm chất lượng dịch vụ ở đâu đó trong chuỗi
cung ứng. Các công ty 3PL thường cơ bản gồm vận tải, dịch vụ kho bãi, gom hàng nhanh,
quản lí tồn kho, đóng gói hay giao nhận vận tải.

Khác biệt nhất đối với 4PL chính là các hoạt động mang tính chiến lược không chỉ cho
chuối cung ứng của khách hàng, mà con cho sự phát triển của chuỗi cung ứng ấy phù hợp
với tầm nhìn dài hạn và toàn cục của công ty. Ngoài ra điểm khác của 4PL so với 3PL là:
Các công ty cung cấp dịch vụ 4PL thường là một thực thể riêng biệt được thành lập như là

một liên doanh hay trên cơ sở những hợp đồng dài hạn giữa khách hàng chính và một hoặc
một số đối tác khác. Các công ty 4PL đóng vai trò là cầu nối duy nhất giữa khách hàng và
các nhà cung cấp dịch vụ khác. Mọi phương diện trong chuỗi cung ứng của khách hàng
đều được quản lý bởi công ty 4PL. Đôi lúc, và thậm chí là ngày càng phức tạp, các công ty
4PL cũng được coi như là những-nhà-cung-cấp-dịch-vụ-logistics-dẫn-đầu [Lead Logistics
Providers], một định nghĩa về công ty liên kết với các công ty 3PL khác để cung cấp để
hoàn tất toàn bộ các chức năng logistics được thuê ngoài. Rõ ràng từ những định nghĩa trên
vai trò của 4PL trong logistics là vai trò quản lý.

Video liên quan

Chủ Đề