Nhà thơ nào trong các tác giả sau đã trường thành từ trong thơ mới

Các nhà thơ trong Phong trào Thơ Mới với Cách mạng Tháng Tám 1945

Cập nhật lúc 15:33, Thứ Tư, 17/08/2011 [GMT+7]

Với Phong trào Thơ Mới [1930-1945], Cách mạng Tháng Tám [CMT8/1945] có ý nghĩa như một dấu mốc khép lại “Một thời đại trong thi ca”[1] . Thời đại ấy đã được nhà phê bình Hoài Thanh khái quát: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh”[2].  Có một sự đổi thay lớn trong nhận thức và tình cảm của nhiều nhà thơ khi CMT8 thành công. Xuân Diệu [1916-1985] là một hiện tượng tiêu biểu. Trước CMT8, trong niềm cô đơn kiêu hãnh và tuyệt vọng, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” đã tự ví mình như đỉnh Hy Mã Lạp Sơn: “Ta là Một, là Riêng, là thứ Nhất  Không có chi bè bạn nổi cùng ta  … Đời đã hết. Chỉ riêng ta đứng mãi  Ở đây không dấu vết loài người” [Hy Mã Lạp Sơn] Sau cách mạng, ông đã tìm thấy nguồn mạch mới cho thơ mình: “Có một suối thơ chảy từ gần gũi Rất xa xôi và lại đến gần quanh Một suối thơ lá ngọt với hoa lành Nói trong sớm và giỡn cười dưới phố”                                  [Nguồn thơ mới] Xuân Diệu là người đã bắt nhịp rất nhanh với nhịp điệu của cuộc sống cách mạng. Chỉ sau ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không bao lâu, nhà thơ đã kịp hoàn thành bản trường ca "Ngọn quốc kỳ" [11-1945] bày tỏ niềm vui sướng, tự hào về thắng lợi của cách mạng, cảm nhận một cách sâu sắc thành quả to lớn mà cuộc cách mạng đã đem đến cho nhân dân - nền độc lập dân tộc sau 80 năm dài nô lệ - qua biểu tượng thiêng liêng cờ đỏ sao vàng: “Gió bay đi, mà nhạc cũng bay theo, Đưa tin mới khắp trên trời đất Việt. Hoa cỏ đón mà núi sông cũng biết, Cờ Việt Nam oanh liệt gió mừng bay! … Việt Nam! Việt Nam! cờ đỏ sao vàng! Những ngực nén hít thở Ngày Độc Lập! Nguồn lực mới bốn phương lên tới tấp! Nếp cờ bay chen vỗ sóng bài ca...” Đầu năm 1946, Xuân Diệu viết tiếp trường ca "Hội nghị non sông". Trong bản trường ca này, nhà thơ đã so sánh Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam do nhân dân bầu ra với Hội nghị Diên Hồng đời nhà Trần, từ đó ca ngợi nền dân chủ cộng hòa vừa được thiết lập, khẳng định ý chí, sức mạnh của toàn dân quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ. Gần gũi với Xuân Diệu trong cảm nhận về đất nước và cách mạng, nhà thơ Thâm Tâm [1917-1950], tác giả của bài thơ nổi tiếng “Tống biệt hành” [1940] đề cao chí làm trai của con người thời đại: “Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ/ Chí nhớn chưa về bàn tay không/ Thì không bao giờ nói trở lại/ Ba năm mẹ già cũng đừng mong…” đã phản ánh sự đổi thay của đất nước qua màu cờ Tổ quốc:  "Hồn thiêng khắp hết cõi bờ Sáng nay óng ánh trên tơ vải điều".

Còn nhà thơ Đoàn Văn Cừ [1913-2004] đã nhìn thấy những đổi thay của quê hương qua sự đổi thay của con người. Vẫn là cô thôn nữ duyên dáng “Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ”  trong “Chợ Tết” được sáng tác trước CMT8 nhưng giờ đây hiện ra hết sức mới mẻ:

“Bao thôn nữ hôm qua còn yếm đỏ  Miệng hoa cười tươi tựa ánh bình minh  Hôm nay đều ra khỏi lũy tre xanh  Với dòng máu quật sôi trong huyết quản” Có thể nói, CMT8 đã mang đến  niềm vui lớn cho toàn dân, trong đó có các nhà thơ trong Phong trào Thơ Mới. Trước đây các nhà thơ mang cảm hứng sáng tạo và phong cách khác nhau, nhưng lúc này họ đều có chung nguồn cảm xúc trước những biến cố trọng đại của đất nước, cảm nhận được sự đổi thay lớn lao của dân tộc và đã nói lên một cách chân thành bằng những hình tượng nghệ thuật. Niềm vui của nhà thơ Phạm Huy Thông [1916-1988], tác giả của “Tiếng địch sông Ô” [1935] được thể hiện bằng khát vọng sáng tạo: “Đờn thi sĩ vốn từ lâu treo vách  Ca sao đang trong buổi đất trời xiêu  Bỗng thèm ca những công lao hiển hách  Của Kim tinh chói lọi trên cờ điều” Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh [ nhóm Xuân Thu Nhã tập ], người từng viết những câu thơ bí hiểm dường như chỉ một mình ông hiểu như: „Lẵng xuân / Bờ giũ trái xuân sa/ Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà/ Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm/ Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa” [Buồn xưa] , sau cách mạng đã có những vần thơ chân thật và giản dị bày tỏ tâm trạng vui sướng của mình: “Ta khát vô biên ngọn sóng vang Ta mừng hội gió lúc lên đàng” Trần Huyền Trân [1913-1989] trước cách mạng đã có lúc phải thốt lên: “Đã toan ném bút, vùi thơ / Thõng không tay áo sợ dơ dáng đời”. Cách mạng thành công, nỗi buồn trong thơ ông đã nhường chỗ cho niềm vui và sự lạc quan: “Một sáng tung cờ đỏ/ Bố về với súng gươm/ Mừng lau hàng lệ rỏ/ Mắt mẹ tan mù sương/ Tám mươi năm bụi phủ/ Mưa rào phút sạch trơn” v.v... Trước CMT8, hầu hết các nhà thơ đều mang tâm trạng cô đơn, buồn chán. Nhưng sau cách mạng, họ đã “lột xác” khá nhanh. Có được điều đó là nhờ trong mỗi một con người thi sĩ luôn luôn cuộn chảy dòng máu yêu nước và tinh thần dân tộc, cho dù họ là lớp người chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Nhiều nhà thơ của phong trào Thơ Mới đã tham gia mặt trận Việt Minh, Hội Văn hóa Cứu quốc từ trước năm 1945 như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân... Vì vậy, họ không một chút băn khoăn, do dự khi đi theo cách mạng, đồng hành cùng nhân dân trên con đường đấu tranh giành độc lập cho đến cả sau này. Con đường đến với cách mạng cũng là con đường dẫn đến sự thay đổi quan niệm và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật - “Từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người. Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” [Paul Eluya, nhà thơ Pháp]. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã nhận thức về sự biến đổi của mình: “Ta là ai? Như ngọn gió vô hình Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt Ta vì ai? Khẽ xoay chiều ngọn bấc Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh…” Tuy nhiên, đổi mới quan niệm và cảm hứng sáng tạo có mang lại những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn hay không cũng là một vấn đề. Những năm đầu sau CMT8 và kháng chiến chống Pháp, sáng tác của các nhà thơ đã thành danh trong Phong trào Thơ Mới không chỉ khiêm tốn về số lượng mà cả về chất lượng nghệ thuật. Đối với không ít nhà thơ, những tác phẩm được viết trước CMT8 mãi mãi là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của họ. Nhưng cũng có những nhà thơ khác vẫn giữ được vị trí hàng đầu trong nền thơ Việt Nam hiện đại như Xuân Diệu, Chế Lan Viên.                                                                           

                                                                                                  Vác-sa-va  tháng 8 - 2010

                                                                                                  Đà Lạt tháng 8 - 2011

 [1] và [2]: Hoài Thanh, Hoài Chân  – “Thi nhân Việt Nam”,1942

Hoàng Trọng Hà

,

SoanBai123 » Soạn Văn » Soạn Văn Lớp 12 » Phong trào thơ mới [1932 – 1945]

Phong trào thơ mới [1932 – 1945]

Mời các bạn học sinh tham khảo thêm:

Thế nào là đoạn văn Diễn dịch – Quy nạp

Trong những năm đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước xuất hiện một dòng thơ ca thuộc khuynh hướng lãng mạn. Đó là Thơ mới [hay còn gọi là Thơ mới lãng mạn]. Thơ mới là một cuộc cách mạng thơ ca trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc ở thế kỷ 20. Sự xuất hiện của Thơ mới gắn liền với sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. Phong trào thơ mới đã mở ra “một thời đại trong thi ca” 1,  mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.

I- Hoàn cảnh lịch sử xã hội.

Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945.

Giai cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành, các nhà tư sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa, một bộ phận đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình.

Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác.

Phong trào thơ mới [1932 – 1945]

II- Các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới .

Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo bản nhạc đầu tiên trong bản hòa tấu của Phong trào thơ mới. Tản Đà chính là “gạch nối” của hai thời đại thơ ca Việt Nam, được Hoài Thanh – Hoài Chân xếp đầu tiên trong số 46 tên tuổi lớn của Phong trào thơ mới. Và đến ngày 10-3-1932 khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với bài tự giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của Phong trào thơ mới chính thức bắt đầu.

Có thể phân chia các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới thành ba giai đọan2:

1- Giai đoạn 1932-1935:

Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới.

Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tậpMấy vần thơ [1935]. Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên …

2- Giai đoạn 1936-1939:

Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọan này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu [tậpThơ thơ -1938], Hàn Mặc Tử [Gái quê -1936, Đau thương -1937], Chế Lan Viên [Điêu tàn – 1937], Bích Khuê [Tinh huyết – 1939], … Đặc biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa  mới bước vào làng thơ “đã được người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn”3 . Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này.

Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hóa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích bằng sự khẳng định của cái Tôi. Cái Tôi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật. Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thoát ly riêng.

3- Giai đoạn 1940-1945:

Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung …; nhóm Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,  Bích Khê,…

Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát.

III- Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới

Đánh giá Phong trào thơ mới, nhà thơ Xuân Diệu nhận địnhh “Thơ mới là một hiện tượng văn học đã có những đóng góp vào văn mạch của dân tộc”… “ Trong phần tốt của nó, Thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc”. Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng “Dòng chủ lưu của Thơ mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa”… “Các nhà thơ mới đều giàu lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một cách đậm đà đằm thắm”4.

1- Tinh thần dân tộc sâu sắc

Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thời kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng từ 1925-1931 [mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi nghĩa Yên Bái]. Nhà thơ Thế Lữ luôn mơ ước được “tung hoành hống hách những ngày xưa” [Nhớ rừng]; Huy Thông thì khát khao:

“Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng
Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”.

Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lòng yêu tiếng Việt. Nghe tiếng ru của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hồn thiêng đất nước” trong từng câu ca:

“Nằm trong tiếng nói yêu thương
Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”.

Có thể nói, các nhà thơ mới đã có nhiều đóng góp, làm cho tiếng Việt không ngày càng trong sáng và giàu có hơn.

Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ còn phảng phất với nỗi buồn đau của ngưòi nghệ sĩ không được tự do [Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Trần Huyền Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm] …

2- Tâm sự yêu nước thiết tha

Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ. Đó là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp [Em đi Chùa Hương]; hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận [Đẹp xưa]; hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh [Quê hương] v.v… Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng quê, cái không khí mộc mạc quen thuộc của ca dao: Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, … Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước.

Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói trên, Phong trào thơ mới còn bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, không tìm được lối ra, thậm chí thoát ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không tốt đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu sau cách mạng tháng Tám.

IV- Đặc điểm nổi bật của Phong trào thơ mới

1. Sự khẳng định cái Tôi

Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu là một nền văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến Phong trào thơ mới, cái Tôi ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một sự lựa chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới.

Ý thức về cái Tôi đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. Cái Tôi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra “trình làng” [chữ dùng của Phan Khôi]. Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ mới lên tiếng trước:

–         “Tôi là con chim đến từ núi lạ …”
“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”…

Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh”:

“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!”

Thoảng hoặc có khi lại là “Ta”:

“Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”.

“ Thơ mới là thơ của cái Tôi”5. Thơ mới đề cao cái Tôi như một sự cố gắng cuối cùng để khẳng định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn mạch dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.

2 . Nỗi buồn cô đơn

Trong bài “Về cái buồn trong Thơ mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là Thơ mới buồn, buồn nhiều”, “Cái buồn của Thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa tìm thấy lối ra”6.

Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với hình ảnh:

“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”.

[Lưu Trọng Lư ].

Với Chế Lan Viên đó là “Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời” [tức dân Chàm]:

“Đường về thu trước xa xăm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi”

Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn “Xao xác gà trưa gáy não nùng” còn Xuân Diệu lại thấy “Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa”. Về điều này, Hoài Chân cho rằng “Xuân Diệu phải là người buồn nhiều, đau buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.

Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ mới, nỗi buồn ấy còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng với đời và với chính mình.

3. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu

Ngay từ khi ra đời, “Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ”7. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc, âm thanh, tràn trề sự sống.

Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”. Và đây là hình ảnh buổi trưa hè: “Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao

Có cu gáy và bướm vàng nữa chứ”

[Huy Cận].

Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như:

“Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rủ trước thành”

tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi người Việt Nam.

Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới. “Ông hoàng của thơ tình” Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn nhiên:

“Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”.

Chu Văn Sơn cho rằng “Xuân Diệu coi tình yêu như một tôn giáo” nhưng là một “thứ tôn giáo lãng mạn, tôn giáo nghệ sĩ”8.

Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận thân phận bằng nỗi cô đơn sầu não:

“Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”.

Cảm xúc ấy không phải là một ngoại lệ. Nhà thơ Huy Cận cho rằng “Cái đẹp bao giờ cũng buồn” [Kinh cầu tự] và cảm nhận được sự tận cùng của nỗi buồn cô đơn “sầu chi lắm, trời ơi, chiều tận thế”. Nhà thơ triết lý về điều này một cách sâu sắc:

“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.

4. Một số đặc sắc về nghệ thuật

Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu sắc.

Về thể loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phóng túng nhưng dần dần trở về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn, thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu [Lưu Trọng Lư], Ông Đồ [Vũ Đình Liên], Em đi chùa Hương [Nguyễn Nhược Pháp]… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, T.T.KH chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát v.v…

Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú, ít sử dụng một vần [độc vận] mà dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường thiên: vần ôm, vần lưng, vần chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc không theo một trật tự nhất định:

“Tiếng địch thổi đâu đây Cớ sao nghe réo rắt Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt Mây bay… gió quyến, mây bay Tiếng vi cút như khoan như dìu dặt

Như hắt hiu cùng hơi gió heo may”

[Thế Lữ].

Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc điệu riêng. Đây là những câu thơ toàn thanh bằng:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”

[Xuân Diệu]

hay

“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng rơi!

Thu mênh mông”

[Bích Khê]

Ngoài việc sử dụng âm nhạc, Thơ mới còn vận dụng cách ngắt nhịp một cách linh hoạt:

“Thu lạnh / càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước / lạnh / trời ơi!” [Xuân Diệu]

Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về ngôn ngữ Thơ mới diễn ra khá rầm rộ. Thoát khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của “Thơ cũ”, Thơ mới mang đến cho người đọc một thế giới nghệ thuật giàu giá trị tạo hình và gợi cảm sâu sắc:

“Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều”

[Xuân Diệu]

hay

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc dưới sông trôi”

[Anh Thơ]

Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc điệu cùng với tính hình tượng, cảm xúc của ngôn ngữ đã tạo nên một phong cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm giác, bằng màu sắc hội họa của thơ mới. Đây là bức tranh “Mùa xuân chín” được Hàn Mặc Tử cảm nhận qua màu sắc và âm thanh:

“Trong làn nắng ửng, khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang”.

5. Sự ảnh hưởng của thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp.

Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gặp gỡ giữa thơ Đường và Thơ mới chủ yếu ở thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu và giữ lại những mặt tích cực, tiến bộ của thơ Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị,… Trong bàiTràng giang, Huy Cận mượn tứ thơ của Thôi Hiệu để bày tỏ lòng yêu nước:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm cho thơ tiếng Việt càng phong phú giàu có thêm, tinh tế hơn thì sự ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp góp phần cho Thơ mới sáng tạo về thi hứng, bút pháp và cách diễn đạt mới lạ, độc đáo. Một trong những nhà thơ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp là Thế Lữ, Huy Thông, về sau là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,…Hầu hết các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng khá sâu sắc chủ nghĩa tượng trưng của thơ ca lãng mạn Pháp mà đại biểu là Budelaire, Verlaine, Rimbaud. Sự ảnh hưởng ấy diễn ra trên nhiều bình diện: từ cách gieo vần, ngắt nhịp đến cách diễn đạt. Ta có thể tìm thấy điều này ở các bài Nguyệt Cầm, Đây mùa thu tới [Xuân Diệu], Đi giữa đường thơm [Huy Cận], Màu thời gian [Đoàn Phú Tứ]. Một số bài thơ trong tập Tinh huyết [Bích Khê],Thơ điên [Hàn Mặc Tử], Thơ say [Vũ Hoàng Chương] chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái suy đồi của thơ ca Pháp [các bài thơ Những nguyên âm của Rimbaud, Tương hợp của Budelaire …].

Trong bài “Thơ mới-cuộc nổi loạn ngôn từ” Đỗ Đức Hiểu nêu nhận xét về hệ thống ngôn từ Thơ mới “Thơ mới là bản hòa âm của hai nền văn hóa xa nhau vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại”9. Đó là sự giao thoa tiếng Việt với thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Sự ảnh hưởng thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp đối với Phong trào thơ mới không tách rời nhau. Điều này cho thấy tác động và ảnh hưởng từ nhiều phía đối với Thơ mới là một tất yếu trong quá trình hiện đại hóa thơ ca. Chính sự kết hợp Đông -Tây nói trên đã tạo nên bản sắc dân tộc và sức hấp dẫn riêng của Thơ mới.

Sau 75 năm, kể từ khi ra đời cho đến nay, Phong trào thơ mới đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn học dân tộc. Qua thời gian, những giá trị tốt đẹp của Phong trào thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng được thử thách và có sức sống lâu bền trong lòng các thế hệ người đọc.

—————————————

CHÚ THÍCH:

1-    Một thời đại trong thi ca [Thi nhân Việt Nam, Hòai Thanh-Hoài Chân, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993, trang 15]

2-    Trong cuốn Văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 [NXB Giáo dục, 2002], Phan Cự Đệ chia làm 2 giai đoạn: 1932-1939 và 1940-1945

3-    Thi nhân Việt Nam [Sđd, trang 106]

4-     Về Thơ mới [Huy Cận, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 12]

5-    Thơ mới, những bước thăng trầm [Lê Đình Kỵ, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1993, trang 46]

6-    Về cái buồn trong Thơ mới [Hoài Chân, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 23]

7-    Về Thơ mới [Huy Cận, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 9]

8-    Ba đỉnh cao Thơ mới [Chu Văn Sơn- NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 24].

9-    Thơ mới, cuộc nổi loạn của ngôn từ [Đỗ Đức Hiểu, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 142].

Biên soạn: PMT [Chuyên BL]

Video liên quan

Chủ Đề