Như thế nào la một nền văn hóa tiên tiến

Để làm rõ hơn mệnh đề “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, Pháp luật Việt Nam đã phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) Nguyễn Văn Hùng về vấn đề này.

Theo đó, hai vấn đề này có mối quan hệ gắn bó với nhau. Điều này thể hiện ở chỗ chỉ khi nền văn hóa đạt đến “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” thì nền văn hóa đó mới có nền tảng “trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Trên thực tế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được đề cập trong nhiều văn bản quan trọng, đặc biệt từ Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII.

Trong đó, “tiên tiến” trong văn hóa trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ, nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tất cả vì sự phát triển toàn diện của con người, trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên và xã hội; tiên tiến thể hiện ở cả nội dung tư tưởng lẫn hình thức, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.

Còn “bản sắc văn hóa dân tộc” là các giá trị đặc trưng, tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, bản chất riêng của nền văn hóa, là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, đó cũng là tổng hòa các khuynh hướng sáng tạo văn hóa, được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, thể chế chính trị… trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Bản sắc văn hóa được thể hiện rõ trong truyền thống dân tộc, là các giá trị văn hóa tiêu biểu được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, được khai thác và phát huy bồi đắp, tạo nên dòng chảy văn hóa của dân tộc từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.

Trên cơ sở đó, tính tiên tiến và bản sắc dân tộc hòa quyện, gắn bó hữu cơ trong các yếu tố cấu thành của nền văn hóa, đảm bảo tính kế thừa và phát triển, vừa giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời đảm bảo tính mở, tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại, phù hợp với mục tiêu, đặc điểm, truyền thống của đất nước trong quá trình đi lên CNXH.

“Sức mạnh nội sinh” của văn hóa nằm ở chiều sâu văn hóa của dân tộc, trong bề dày truyền thống của nó trong lịch sử, nuôi dưỡng tâm hồn và bồi dưỡng nhân cách, phẩm giá con người. Sức mạnh nội sinh của văn hóa được nhận biết từ các giá trị văn hóa, các sản phẩm văn hóa, khả năng tác động, ảnh hưởng, sự hướng dẫn của văn hóa đối với con người và xã hội, với cá nhân và cộng đồng, theo hệ giá trị phổ quát chân - thiện - mỹ.

Trong hội nhập quốc tế về văn hóa đòi hỏi Việt Nam phải có một bản lĩnh văn hóa mạnh. Vì nếu thiếu sức mạnh sẽ dễ rơi vào tình trạng tự đánh mất truyền thống, giá trị truyền thống, nhất là bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Mất văn hóa là mất tất cả. Nội sinh có mạnh và bền vững thì trong hội nhập mới tiếp nhận được ngoại sinh một cách có chọn lọc, để ngoại sinh thâm nhập vào nội sinh theo chiều hướng tích cực, phát triển chứ không phải lấn át, làm suy yếu nội sinh.

Để phát huy sức mạnh nội sinh văn hóa vào sự nghiệp đổi mới, phát triển, hội nhập hiện nay, dựa trên tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII và Hội nghị Văn hóa toàn quốc, chúng ta cần lưu ý ở mấy điểm sau:

Cần xác định rõ cái đích thực, chân giá trị của văn hóa thì mới nhận biết rõ sức mạnh nội sinh văn hóa mà ta cần giữ gìn, phát huy và vận dụng sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể; Những giá trị truyền thống chứa đựng sức mạnh nội sinh của văn hóa phải được nuôi dưỡng, phát huy trong thời hiện đại. Kết hợp truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phương thức, con đường để các giá trị văn hóa mang sức mạnh nội sinh vào trong phát triển, hiện đại hóa đất nước; Chủ động tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và hội nhập với văn hóa thế giới; Quảng bá và truyền dẫn văn hóa dân tộc vào đời sống văn hóa thế giới, góp phần hội nhập quốc tế vì hòa bình, hợp tác, hữu nghị và phát triển; giải quyết mối quan hệ giữa con người và văn hóa bởi mỗi cá nhân, cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo văn hóa; Đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ để họ khởi nghiệp sáng tạo, sống có lý tưởng, có đạo đức, có nghị lực, có bản lĩnh đưa đất nước tới phát triển, văn minh, hiện đại, tạo dựng đời sống xã hội, môi trường xã hội lành mạnh, đủ sức ngăn chặn, đẩy lùi những tha hóa và phản văn hóa trên các trụ cột: Dân chủ, công bằng, bình đẳng, tự do, sáng tạo. Giáo dục tình thương - kỷ cương - trách nhiệm - tự trọng, tự tin, vị tha, nhân ái, bao dung cho con người Việt Nam từ gia đình, nhà trường đến xã hội. Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần dân tộc cho toàn dân, dựng nước gắn liền với giữ nước.

- Trong thời kỳ hội nhập, văn hóa phải được coi là “sức mạnh mềm” của đất nước. Theo Bộ trưởng, chúng ta cần làm thế nào để giữ gìn bản sắc văn hóa, phát huy “sức mạnh mềm” này trong quá trình phát triển và hội nhập?

- Muốn văn hóa Việt Nam thực sự trở thành “sức mạnh mềm” của đất nước, tôi cho rằng, cần phải xác lập được lộ trình xây dựng “sức mạnh mềm” văn hóa Việt Nam. Chúng ta cần chuyển hóa được nguồn di sản văn hóa vô cùng dồi dào, phong phú của đất nước, những giá trị văn hóa tốt đẹp thành các sản phẩm, dịch vụ văn hóa có khả năng hấp dẫn, thu hút thế giới đến với Việt Nam thông qua du lịch văn hóa, thông qua truyền thông quảng bá, giao lưu văn hóa, xúc tiến thương mại văn hóa, để đó từng bước định hình hình ảnh quốc gia, văn hóa, con người Việt Nam một cách tích cực trong quan hệ quốc tế.

Việt Nam cũng cần hướng tới việc xây dựng một chiến lược tổng thể về phát huy “sức mạnh mềm” văn hóa với các cấp độ mục tiêu. Trước hết, ở cấp độ mục tiêu khái quát, xây dựng cơ chế chuyển hóa nguồn tài nguyên mềm văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam nhằm: Thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ chủ quyền văn hóa; Xây dựng thương hiệu văn hóa quốc gia; Gia tăng sức hấp dẫn văn hóa; Thu hút thế giới đến với Việt Nam; Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới; Nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia của các ngành công nghiệp văn hóa; Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, vị thế quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế.

Thứ hai, ở cấp độ cụ thể hơn, chiến lược chia các mục tiêu dài hạn này thành các kế hoạch trung và ngắn hạn nhằm từng bước đưa tới thành công cuối cùng. Theo đó, Việt Nam cần phải bắt đầu với sự tính toán rõ ràng về các nguồn lực tài nguyên mềm văn hóa có sẵn và hiểu biết về chúng ở các cấp độ ưu tiên khác nhau tùy thuộc vào tình hình thực tiễn, từ đó đi đến quyết định lựa chọn nguồn lực nào vào các kênh truyền dẫn ra sao cho phù hợp nhằm tạo nên sự chuyển hóa thành “sức mạnh mềm” văn hóa của Việt Nam trong tầm nhìn ngắn hạn, hoặc dài hạn.

- Nhận thức về văn hóa pháp luật là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa. Việt Nam cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khung chính sách, pháp luật như thế nào nhằm tạo môi trường thể chế thuận lợi giúp văn hóa phát triển, thưa ông?

- Phát triển công nghiệp văn hóa như một ngành kinh tế mũi nhọn theo hướng đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững, đưa văn hóa trở thành thương hiệu quốc gia là những nhiệm vụ quan trọng được đề ra tại Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 cũng như Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc được tổ chức tháng 11/2021. Muốn thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này Việt Nam cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khung chính sách, pháp luật theo hướng tạo môi trường thể chế thuận lợi giúp văn hóa phát triển, phát huy “sức mạnh mềm” của văn hóa và con người Việt Nam trong thời đại mới thông qua các giải pháp cụ thể như:

Đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển công nghiệp văn hóa gắn với phát huy tiềm năng sức sáng tạo và bảo vệ sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa…; Hoàn thiện cơ chế, chính sách có trọng tâm, trọng điểm như đề xuất hỗ trợ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa; xây dựng, hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê và cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp văn hóa; hoàn thiện cơ chế, chính sách về hợp tác công tư trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; hoàn thiện cơ sở pháp lý về quyền tác giả, quyền liên quan; Phát triển nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hóa, nghiên cứu, tiến hành đánh giá định kỳ thực trạng nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa; từ đó đề xuất xây dựng kế hoạch đào tạo và bổ sung nguồn nhân lực còn thiếu; Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ của khoa học, kỹ thuật vào quy trình sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa, như sáng tạo, sản xuất; truyền bá, phân phối; tiêu dùng, hưởng thụ; lưu trữ, bảo quản; giáo dục, đào tạo…;

Thu hút và hỗ trợ đầu tư cho văn hóa, phân bổ và sử dụng nguồn đầu tư công để xây dựng các cơ sở hạ tầng về công nghiệp văn hoá, huy động nguồn vốn xã hội hóa để hình thành các không gian văn hóa sáng tạo, hỗ trợ và đỡ đầu cho các dự án khởi nghiệp sáng tạo về văn hoá, nghệ thuật; huy động các nguồn vốn từ nước ngoài thông qua các dự án và tổ chức quốc tế hỗ trợ cho hoạt động sáng tạo văn hóa, nghệ thuật; Phát triển thị trường văn hóa, tạo mạng lưới giữa các trung tâm công nghiệp văn hóa, các không gian sáng tạo trên cả nước và kết nối với các mạng lưới sáng tạo quốc tế; Mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế để tạo dựng thương hiệu có uy tín, đặc biệt là các thương hiệu của 5 ngành công nghiệp văn hoá; Chú trọng bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan…

- Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt NamBÀI KIỂM TRAMÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆTNAMCâu hỏi: Em hiểu thế nào về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắcdân tộc Việt NamBài làm:Khái niệm văn hóaVăn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do conngười sáng tạo ra trong lịch sử.Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thầndo cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựngnước và giữ nước.Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa làđộng lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa phản ánh vàthể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống từ quákhứ tới hiện tại; nó cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyềnthống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêngcủa mình. Văn hóa là động lực để một dân tộc vươn tới các mới, tạo racái mới nhưng không tách khỏi cội nguồn.Công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệphóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mụctiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đòi1Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Namhỏi chúng ta phải xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam là sự thống nhất hữu cơgiữa tính tiên tiến và bản sắc dân tộc. Chúng ta hãy cùng làm rõ quanđiểm này.1. Văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộcViệt Nam trải qua quá trình lịch sử nhiều biến động, nhiều cuộcchiến tranh chống giặc ngoại xâm xảy ra đã tạo nên con người ViệtNam nhiều đức tính tốt đẹp: có lòng yêu nước sâu sắc, sắn sàng hysinh vì sự nghiệp bảo vệ dân tộc... Mặt khác, vị trí địa lý, điều kiện xãhội với cộng đồng 54 dân tộc cũng tạo cho văn hóa nước ta phong phú,đa dạng hơn.1.1Khái niệm bản sắc dân tộc .Bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynhhướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo, giúp chodân tộc ấy giữ vững tính duy nhất, thống nhất, tính nhất quán so vớibản thân mình trong quá trình phát triển. Bản sắc dân tộc đó là lòngyêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thứccộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã –Tổ quốc; đó là lòngnhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý; là đức tính cần cù, sángtạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lốisống…Bản sắc dân tộc là những giá trị văn hóa truyền thống bền vữngcủa cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàngngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.2Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam1.2. Quá trình lịch sử và sự phát triển của văn hóa dân tộcLịch sử văn hoá Việt Nam là lịch sử hình thành, tồn tại và kế tiếpnhau của ba nền văn hoá: Văn hoá Đông Sơn (từ 2000 đến 3000 nămcách ngày nay), Văn hoá Đại Việt (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX) và Vănhoá Việt Nam (từ 1945 đến nay), và hai giai đoạn chuyển tiếp.a). Nền văn hoá Đông SơnTương ứng với thời đại Hùng Vương là sự khởi đầu của lịch sửvăn hoá Việt Nam. Từ văn hoá đồ đá cũ Núi Đọ qua văn hoá đồ đágiữa Hoà Bình đến văn hoá đồ đá mới Bắc Sơn, Quỳnh Văn, HạLong,... để rồi hội tụ và "bùng nổ" nền văn minh Đông Sơn rực rỡ.Văn hoá Đông Sơn thời các vua Hùng ra đời dựa trên bước tiếnvề kĩ thuật kim khí (đồ đồng và sơ kì sắt), sự phát triển của nôngnghiệp trồng lúa nước. Người Việt cổ - chủ nhân văn hoá Đông Sơnđã chuyển hẳn từ xã hội nguyên thuỷ sang xã hội có giai cấp, nhànước Văn Lang - Âu Lạc ra đời, bên cạnh làng xã nông nghiệp là cơcấu xã hội cơ bản thì trong xã hội này đã xuất hiện hình thái thành thịđầu tiên là Cổ Loa, trung tâm chính trị của quốc gia cũng đã hìnhthành. Đó cũng là thời kì hình thành tộc người Việt cổ; thời kì hìnhthành những nền tảng cơ bản của bản sắc văn hoá Việt Nam.Giai đoạn chuyển tiếp văn hoá lần thứ nhất: Vào khoảng thiênniên kỉ thứ I sau Công nguyên ( thời kì Bắc thuộc ở nước ta) chúng tabước vào thời kì giao lưu mạnh mẽ với thế giới bên ngoài, quốc gia ÂuLạc của người Việt cổ tiếp xúc với văn minh Trung Hoa trong điềukiện bị xâm lược, mất chủ quyền, bị thống trị và áp bức tàn bạo. Chính3Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Namtrong thời kì khắc nghiệt này của lịch sử, trước thử thách mất còn củadân tộc, dân tộc ta vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của mình, lòng yêuquê hương đất nước, chẳng những không bị đồng hóa, mà còn quật cườngđứng dậy giành lại độc lập. Bằng khởi nghĩa Ngô Quyền năm 938 chúngta kết thúc thời kỳ một ngàn năm Bắc thuộc; đổi mới văn hoá Đông Sơnhình thành nền văn hoá Đại Việt, mở đầu là văn hoá Lý - Trần rực rỡ.b) Nền văn hoá Đại Việt (từ thế kỉ X - XIX)Nền văn hoá Đại Việt hình thành và phát triển trên nền tảng củakinh tế nông nghiệp tiểu nông phong kiến và hệ tư tưởng Tam giáo:Phật - Đạo - Nho, trong đó Nho giáo là trụ cột. Cơ cấu xã hội cơ bản làNhà - Làng - Nước.Tôn giáo tín ngưỡng Đại Việt dựa trên cơ sở Tam giáo đồngnguyên (Phật - Đạo - Nho), kết hợp nhuần nhuyễn với tín ngưỡng bảnđịa, tạo nên một môi trường đời sống tâm linh, mang nặng tính ứng xửhơn là triết lí, lấy sự hoà nhập, khoan dung làm cốt cách.Chủ nghĩa yêu nước là một hệ ý thức xã hội cơ bản, từ đó sản sinhvà tích hợp nhiều hình thức và giá trị văn hoá - nghệ thuật dân tộc.Thời kì phong kiến Đại Việt là thời kì định hình và phát triển ởtrình độ cao văn hoá cổ truyền Việt Nam. Chứng kiến sức vươn củavăn hoá thể hiện qua ba đỉnh cao văn hoá: Văn hoá Lý - Trần, Văn hoáLê và Văn hoá Nguyễn. Mỗi đỉnh cao văn hoá ấy đạt tới trình độ pháttriển và mang các sắc thái văn hoá khác nhau.4Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt NamGiai đoạn chuyển tiếp văn hoá lần thứ 2 (từ cuối thế kỉ XIX đến1945). Nền văn hoá Đại Việt tồn tại và phát triển suốt từ thế kỉ X đếncuối thế kỉ XIX thì đứng trước thách thức mới. Thế giới đang bước vàothời kì công nghiệp hoá, do vậy nền văn hoá truyền thống Đại Việt dựatrên nền tảng nông nghiệp tiểu nông phong kiến đòi hỏi phải thay đổi,phải đổi mới trong khung cảnh tiếp xúc văn hoá Đông - Tây, mà vớichúng ta, trực tiếp là với văn hoá Pháp.Hàng loạt những yếu tố và giá trị văn hoá mới được hình thành: ýthức hệ Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng kinh tế côngnghiệp hoá, đô thị hoá và văn hoá đô thị, chữ quốc ngữ và chế độ giáodục mới hiện đại, đội ngũ tri thức mới, các ngành khoa học hình thành,nhiều hình thức văn hoá nghệ thuật mới nảy nở và phát triển: tiểuthuyết, thơ mới, sân khấu kịch, âm nhạc, phim ảnh, thể thao... Đó làkết quả quá trình đổi mới từ văn hoá Đại Việt sang văn hoá Việt Nam.c) Nền văn hoá Việt Nam (từ 1945 đến nay)Gắn với sự ra đời nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ 1945là nền văn hoá hình thành trên nền tảng văn hoá Đại Việt và quá trìnhđổi mới của văn hoá Việt Nam trong khung cảnh tiếp xúc văn hoáĐông Tây. Nền văn hoá Việt Nam hình thành và định hình trên cơ sởnền kinh tế công nghiệp hoá, ý thức hệ Mác - Lênin và tư tưởng HồChí Minh.1.3 Bản sắc dân tộc biểu hiện trên các khía cạnh5Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nama) Phong tục, tập quánPhong tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời hàng ngàn nămnay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt trong người dân cósức mạnh hơn cả những đạo luật.Sớm nhất được nhắc đến trong lịch sử là tục ăn trầu có từ thờiHùng Vương bắt nguồn sự tích Trầu Cau, theo thời gian ý nghĩa củatục ăn trầu được mở rộng sang việc giao hiếu, kết thân của người ViệtNam.Phong tục đón năm mới hay còn gọi là Tết. Từ Tết Nguyên Đán,với những ảnh hưởng từ Trung Quốc, người Việt Nam bổ sung thêmvào những phong tục Tết khác như Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ,Tết Trung thu, Tết Thanh minh. Một số dân tộc khác đón năm mớitrong thời gian khác và tên gọi đặc trưng của mình như Chol ChnamThmay (khoảng tháng 4) của người Khmer, Katê (khoảng tháng 10)của người Chăm Bàlamôm,...Các phong tục hôn nhân, sinh đẻ, thượng thọ, tang lễ, cũng đãsong hành với người Việt Nam từ xa xưa và đến ngày nay vẫn lànhững phong tục gắn liền với đời sống người Việt Nam. Ẩm thực vàtrang phục gắn liền với đời sống thường nhật của người Việt Namngày càng trở lên tinh tế, đặc sắc hơn.b) Lễ hội6Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt NamViệt Nam là một nước có nhiều lễ hội dân gian. Đó là một hìnhthức sinh hoạt của cộng đồng. Việt Nam có nhiều loại lễ hội lớn vàlong trọng như lễ tế các thần linh, các lễ hội nhằm tưởng nhớ tới côngơn tổ tiên, nòi giống như hội Đền Hùng, có những lễ hội tưởng nhớ tớicác anh hùng như hội Gióng, hội Đền Kiếp Bạc, hội Đống Đa, cónhững lễ hội tưởng nhớ người có công mở mang bờ cõi, các ông tổcác ngành nghề,...của người Việt. Bên cạnh các dân tộc khác cũng cócác lễ hội như lễ hội Katê của người Chăm, lễ cúng Trăng của ngườiKhmer,...Ngoài ra còn có hàng trăm lễ hội lớn nhỏ khác nhau. Đặc biệtlà hội mừng Xuân mới của người Việt và một số dân tộc khác. Cùngvới các lễ hội dân gian, các lễ hội của các tôn giáo trở thành những lễhội mang tính cộng đồng như lễ Phật đản của Phật giáo và lễ Noel củaCông giáoc) Tín NgưỡngTừ thuở xa xưa các dân tộc trên đất Việt Nam đã thờ rất nhiềuthần linh. Người Việt thờ các thần Thành Hoàng, các vị anh hùng dântộc, các vị thần trong đạo mẫu. Dân chúng thờ phụng các vị thần nàyđể tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ họ. Cũng như ngườiViệt, người Hoa thờ các vị thần Quan Công, người Chăm thờ các vịthần như Po Nagar, Po Rome,...Thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đờicủa người Việt và một số dân tộc khác. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên7Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Namcũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì như vậy nên giađình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang trọngnhất trong nhà. Ngoài các ngày giỗ, tết thì các ngày mùng một, ngàyrằm họ thắp hương như một như một hình thức thông báo với tổ tiênông bà. Nói đến tục thờ cúng tổ tiên, người ta đều biết tới một ngàygiỗ tổ chung cho cho người Việt đó là ngày giỗ tổ Hùng Vương vàongày 10 tháng 3 (âm lịch)d) Tôn giáoTrải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, đời sống tinh thần nói chungcủa người dân Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều của văn hoá TrungHoa. Với hệ tư tưởng Tam giáo đã thâm nhập vào đời sống tinh thầncũng như vào tôn giáo của người Việt Nam là Đạo giáo, Nho giáo vàPhật giáo. Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc. Phậtgiáo có nguồn gốc từ Ấn Độ.Tam giáo có những thời kỳ phát triển rấtmạnh và cũng có lúc mờ nhạt tại Việt Nam, nhưng nhìn chung ảnhhưởng của Tam giáo rất sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng, nhất làPhật giáo.Từ cuối thế kỷ 19, khi thực dân Pháp đã xâm lược hoàn toàn ViệtNam, Công giáo được truyền tự do dễ dàng. Hiện nay, có khoảng 8%dân số nước ta là tín đồ Công giáo. Tin Lành cũng xâm nhập vào ViệtNam từ đầu thế kỷ 20. Đạo Hồi là tôn giáo của một bộ phận ngườiChăm ở Việt Nam, được du nhập vào từ thế kỷ 15 .Ngoài các tôn giáo8Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Namdu nhập từ bên ngoài trên, tại miền Nam Việt Nam có các tôn giáoHoà Hảo và Cao Đài.e) Ngôn ngữVề mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở ViệtNam thành 8 nhóm ngôn ngữ của họ: Nhóm Việt-Mường, nhóm TàyThái, nhóm Dao-Hmông, nhóm Tạng-Miến, nhóm Hán, nhóm MônKhmer, nhóm Mã Lai-Đa đảo, nhóm hỗn hợp Nam Á. Tiếng Việtthuộc về ngôn ngữ Việt-Mường, hiện nay là ngôn ngữ chính thức củanước Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ của người Việt và đồng thời là ngônngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam,tiếng Việt được 86% người dân sử dụng.f) Văn họcVăn học Việt Nam bao gồm hai bộ phận đó là: văn học dân gianvà văn học viết. Văn học dân gian là văn học truyền miệng của ngườidân. Gồm các chuyện thần thoại như Thần Trụ Trời, Đi san mặt Đất,...những sử thi như Đam San, Đẻ đất đẻ nước,... những truyền thuyếtnhư Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Thánh Gióng, những cổ tích như Cây tretrăm đốt, Thạch Sanh... à các truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ,ca dao,....Trong văn học viết: Một trong những tác phẩm sớm nhất bằngchữ Nôm còn để lại đến hôm nay là các bài thơ của Nguyễn Trãi:9Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt NamQuốc âm thi tập ở thế kỷ 15, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, cácbài thơ của Hồ Xuân Hương và đặc biệt là tác phẩm Truyện Kiều củaNguyễn Du. Từ đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi,với sự phát triển của công nghệ in ấn cùng với những tiếp xúc với vănhọc phương Tây, văn học Việt Nam xuất hiện các thể loại văn họcmới, văn xuôi chiếm vị trí quan trọng.g) Nghệ thuậtKiến trúc là sự kết hợp kiến trúc bản địa cùng ảnh hưởng Trung Quốcvà kiến trúc phương Tây. Nghệ thuật dân gian: điêu khắc, sơn mài, âmnhạc, hội hoạ và văn học, múa rối nước, chèo, tuồng, cải lương, hàikịch, xiếc, ảo thuật, múa, ballet, opera,... Mỹ thuật: tranh dân gian nhưtranh lụa, tranh tết, tranh Đông Hồ… Thế kỷ 20, nền mỹ thuật củanước ta đã tiếp chịu nhiều ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây. Âmnhạc dân gian Việt Nam cũng có truyền thống lâu đời, bắt đầu vớichầu văn, quan họ, ca trù, hát ví, dân ca, vọng cổ, nhạc cung đình, vàrất nhiều loại nhạc cụ như còng chiêng Tây Nguyên, đàn bầu... Tháng9 năm 2009, ba trong số hình thức âm nhạc dân gian Việt Nam là quanhọ, ca trù và nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO vinh danh là disản văn hóa phi vật thể của nhân loại.2.Văn hóa Việt Nam tiên tiếnNền văn hóa tiên tiến có đặc trưng: Yêu nước và tiến bộ, có nộidung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh10Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Namsáng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần nhân văn,tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểuhiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.Nền văn hóa tiên tiến trước hết phải là một nền văn hóa yêunước. Yêu nước là yêu làng quê, yêu phố phường, yêu vùng đất, vùngbiển, vùng trời Tổ quốc; là yêu thương, gắn bó máu thịt với đồng bào,đồng chí; là quyết tâm bảo vệ toàn vẹn độc lập chủ quyền đất nước,quyền tự do, dân chủ; là ý chí đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn,lạc hậu, mọi người dân đều được ấm no, hạnh phúc. Gắn liền với yêunước là tiến bộ. Nền văn hóa tiên tiến phải là nền văn hóa kết tinh tấtcả những gì là tiến bộ, là chân, là thiện, là mỹ của dân tộc, của thờiđại, của loài người.Yêu nước và tiến bộ là đặc trưng bao quát nhất của nền văn hóa tiêntiến. Còn hạt nhân cốt lõi của nền văn hóa tiên tiến là ý tưởng độc lập dân tộcvà chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HồChí Minh. Vì hệ tư tưởng chi phối quan niệm về giá trị, chi phối đạo đức, lốisống và hành vi con người. Nghị quyết Trung ương 5 nêu lên mục tiêunền văn hóa tiên tiến là tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự pháttriển phong phú, tự do, toàn diện con người trong mối quan hệ hài hòagiữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Ở đây là tínhnhân văn cao cả trong đó giai cấp, dân tộc và nhân loại, cá nhân và xãhội, xã hội và tự nhiên là thống nhất trên lập trường chủ nghĩa Mác-11Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt NamLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-hệ tư tưởng thấu suốt nền văn hóa màchúng ta xây dựng.Tính chất tiên tiến thể hiện không những ở nội dung tư tưởng mà cảtrong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải nội dung.Đó là, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại trong đời sống văn hóa, sinh hoạtvăn hóa, trong các ngành thông tin, nghệ thuật, điện ảnh, sân khấu, âmnhạc…; các phương pháp, phong cách sáng tác và biểu diễn cách tânlành mạnh; việc kế thừa, đổi mới và nâng cao các loại hình nghệ thuậttruyền thống, sinh hoạt văn hóa truyền thống. Ở đây, tiên tiến thường cónghĩa là hiện đại, song không phải mọi cái hiện đại đều là tiên tiến,cũng không phải đã là hiện đại thì loại trừ bản sắc dân tộc và càngkhông được nhầm lẫn hiện đại với “chủ nghĩa hiện đại” phiến diện nhấtlà trong văn học nghệ thuật như cách ăn mặc không theo thuần phongmỹ tục, bài hát không có nội dung…3. Xây dựng và bảo vệ nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộcMột dân tộc mất nước nhưng văn hóa không mất thì dân tộc đócòn tồn tại, nhưng một dân tộc mà mất văn hóa thì dân tộc đó cũngmất. Vì vậy bảo vệ và xây dựng văn hóa là vô cùng quan trọng. Cácbiện pháp:a) Đối với cộng đồng12Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt NamCần tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển về thểlực, trí lực và tình cảm, có lý tưởng và nhiệt tình cách mạng, trungthành với sự nghiệp đổi mới đảm bảo yêu cầu sự nghiệp công nghiệphóa, hiện đại hóa.Nâng cao chất lượng toàn diện của việc xây dựng đời sống vănhóa và môi trường văn hóa.Đảm bảo tự do và dân chủ trong hoạt động sáng tạo văn học,nghệ thuật, báo chí xuất bản, phát huy vai trò tích cực của các lĩnh vựcnày trong việc xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh.Tiếp tục đầu tư, tôn tạo, bảo tồn và phát huy các di tích lịch sửvăn hóa, cần chú trọng xây dựng các công trình văn hóa trọng điểmquốc gia và khu vực.Mở rộng hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa. Đadạng hóa các hình thức trao đổi và hợp tác văn hóa, văn học, nghệthuật với nước ngoài. Tuy nhiên phải giữ bản sắc dân tộc, hòa nhậpnhưng không hòa tan.b) Đối với cá nhânPhải luôn nâng cao tinh thần yêu nước không chỉ trong chiến đấumà trong cả công cuộc xây dựng tổ quốc13Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314Môn Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt NamMỗi cá nhân học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ ChíMinh, luôn rèn luyện, giữ gìn những đức tính: nhân, đức, lễ, nghĩa, chí,tín. Người phụ nữ trong xã hội mới vẫn phải giữ gìn những đức tínhtốt: công, dung, ngôn,hạnh để hướng tới sự chân, thiện, mỹ.Gần đây nhất là sự kiện về Nhật Bản với việc hứng chịu thảmhọa kép: động đất, sóng thần, khủng hoảng hạt nhân.Tuy nhiều khókhăn phía trước nhưng người Nhật đã cho cả thế giới thấy tinh thầnkiên cường, lối sống kỷ luật , tinh thần nhân văn cao cả vì cộng đồng,vì con người đáng để cộng đồng thế giới , trong đó có chúng ta học tậpvà noi theo.14Sinh viên: Phạm Thị Bích Hường – Mã SV:CQ501314