Những khó khăn trong giao tiếp của học sinh trung học cơ sở

1.2. Đặc điểm tâm sinh lí và những khó khăn của học sinh trung học cơ sở trong cuộc sống học đường

  • Nêu được những đặc điểm phát triển tâm sinh lí của học sinh trung học cơ sở
  • Phân tích được những khó khăn của học sinh trung học cơ sở trong cuộc sống học đường và sự tác động của một số yếu tố trong bối cảnh xã hội mới đến tâm lí học sinh trung học cơ sở.
  • Nghiên cứu tài liệu về đặc điểm tâm sinh lí và những khó khăn của học sinh trung học cơ sở trong cuộc sống học đường.
  • Xem video
  • Trả lời các câu hỏi tương tác liên quan tới nội dung 1.2
Những khó khăn trong giao tiếp của học sinh trung học cơ sở
Những khó khăn trong giao tiếp của học sinh trung học cơ sở

Những khó khăn trong giao tiếp của học sinh trung học cơ sở
1.2. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trung học cơ sở
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9) là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn và thường được gọi với các tên như: “tuổi dậy thì”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi ngã ba đường”… Đây là thời kỳ đánh dấu sự thay đổi nhanh và mạnh mẽ của các yếu tố tâm sinh lí ở học sinh với sự phát triển nhảy vọt về chiều cao và thể lực, sự thay đổi về tỉ lệ cơ thể, các hormone sinh dục, sự phát triển năng lực nhận thức, tư duy và khả năng hình thành các mối quan hệ giao tiếp xã hội cũng như các yếu tố liên quan đến sự phát triển bản thân của học sinh.1.2.1. Đặc điểm phát triển thể chất của học sinh trung học cơ sởĐiểm nổi bật trong sự phát triển thể chất của học sinh trung học cơ sở là sự phát triển nhanh, mạnh mẽ nhưng không cân đối giữa các cơ quan, hệ cơ quan trong cơ thể.Trong khi hệ xương phát triển với tốc độ nhanh thì hệ cơ lại phát triển chậm hơn, dẫn đến vẻ ngoài thiếu cân đối ở nhiều học sinh. Trong sự phát triển của hệ xương thì xương tay, xương chân phát triển mạnh nhưng xương lồng ngực phát triển chậm hơn. Xương bàn tay và các đốt ngón tay phát triển không đồng đều. Việc cải tổ bộ máy vận động làm mất đi sự nhịp nhàng của các cử động, làm cho học sinh lúng túng, vụng về, vận động thiếu hài hoà, đôi lúc khiến các em cảm thấy không thoải mái, thiếu tự tin về bản thân.Do thể tích tim tăng nhanh, hoạt động mạnh hơn trong khi đường kính của các mạch máu lại phát triển chậm hơn dẫn đến sự rối loạn tạm thời của tuần hoàn máu. Do đó học sinh trung học cơ sở dễ gặp những hiện tượng mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, trống ngực đập nhanh, huyết áp tăng khi phải học tập/làm việc quá sức hoặc trong một khoảng thời gian dài.Học sinh trung học cơ sở có sự thay đổi đột ngột bên trong cơ thể do các tuyến nội tiết đang hoạt động tích cực (đặc biệt những hoocmôn của tuyến giáp trạng, tuyến sinh dục). Do hệ thống tuyến nội tiết và hệ thần kinh có liên quan với nhau về chức năng nên khi các em tham gia hoạt động quá mức, có sự căng thẳng thần kinh thì cũng có thể ảnh hưởng và là nguyên nhân gây rối loạn nội tiết. Ngược lại, sự thay đổi, rối loạn của tuyến nội tiết cũng ảnh hưởng đến chức năng của hệ thần kinh, khiến học sinh trung học cơ sở dễ nảy sinh tâm trạng lo lắng, căng thẳng, ức chế ngay cả trong những tình huống, sự việc thường ngày.Ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, não bộ có sự phát triển mới giúp các chức năng trí tuệ phát triển mạnh mẽ. Các vùng thái dương, vùng đỉnh, vùng trán, các tua nhánh của nơron phát triển rất nhanh, tạo điều kiện nối liền các vùng này với vỏ não, các nơron thần kinh được liên kết với nhau, hình thành các chức năng trí tuệ.Những quá trình hưng phấn phát triển mạnh, chiếm ưu thế rõ rệt và lan toả cả vùng dưới vỏ não. Vì vậy, học sinh trung học cơ sở dễ bị “hậu đậu”, có nhiều động tác phụ của đầu, chân, tay trong khi vận động hay tham gia các hoạt động. Do các quá trình hưng phấn mạnh, chiếm ưu thế và các quá trình ức chế có điều kiện bị suy giảm nên học sinh trung học cơ sở thường khó làm chủ được cảm xúc, đặc biệt là các xúc động mạnh. Sự thay đổi mối tương quan giữa các quá trình hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh thường gây nên tính mất cân bằng chung, tính dễ bị kích thích, tính hiếu động, tính uể oải theo chu kì của học sinh (chẳng hạn vào những chu kì kinh nguyệt đối với các em nữ). Bởi vậy, các em dễ nổi nóng, hay có phản ứng vô cớ, dễ bị kích động, mất bình tĩnh, dễ vi phạm kỉ luật.Ở học sinh trung học cơ sở có sự mất cân đối giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ hai. Do đó ngôn ngữ của các em cũng có sự thay đổi. Các em nói chậm hơn, ngập ngừng, nói “nhát gừng”… Tuy nhiên, sự mất cân bằng trên chỉ có tính chất tạm thời. Khoảng 15 tuổi trở đi thì vai trò của hệ thống tín hiệu thứ hai tăng, sự ức chế trong được tăng cường, quá trình hưng phấn và ức chế cân đối hơn. Nhờ vậy các em sẽ bước vào tuổi học sinh trung học phổ thông với sự hài hoà của hai hệ thống tín hiệu, của hưng phấn và ức chế ở não bộ, tạo điều kiện cho sự hoàn thiện các kĩ năng giao tiếp – xã hội của học sinh.

Hiện tượng dậy thì

Dậy thì là yếu tố đặc trưng trong sự phát triển của lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. Hiện tượng dậy thì bao gồm sự thay đổi cơ bản cả về cơ thể, sinh lí, sinh dục của cá nhân nhằm đảm bảo cho chức năng sinh sản của con người.Trong khi có sự trưởng thành về mặt sinh lí và các chức năng của cơ quan sinh sản thì mức độ trưởng thành về mặt xã hội của học sinh lại diễn ra không tương ứng. Một số học sinh sẽ cảm thấy khó khăn trong việc kiềm chế những bản năng, ham muốn của bản thân, chưa biết tự nhận thức, tự đánh giá tình cảm và hành vi, chưa biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với bạn khác giới. Vì thế người lớn (cha mẹ, giáo viên, các nhà giáo dục…) cần hướng dẫn, giúp đỡ học sinh một cách khéo léo, tế nhị để các em hiểu đúng vấn đề, không băn khoăn lo lắng khi bước vào tuổi dậy thì.1.2.2. Đặc điểm tâm lí cơ bản của học sinh trung học cơ sở

Sự phát triển trí tuệ của học sinh trung học cơ sở

Điểm đặc trưng dễ nhận thấy nhất trong sự phát triển trí tuệ của học sinh trung học cơ sở là sự hình thành và phát triển các tri thức lí luận, gắn với các mệnh đề. Suy nghĩ và sự hình thành các tri thức của học sinh không còn bị ràng buộc bởi các sự việc được quan sát mà các em đã có khả năng áp dụng phương pháp logic trong học tập các môn học ở trường.

➣ Quá trình tri giác của học sinh trung học cơ sở đã phát triển hoàn thiện hơn, thể hiện ở khả năng phân tích và tổng hợp phức tạp hơn khi tri giác sự vật hiện tượng.


➣ Ghi nhớ có ý nghĩa, ghi nhớ logic đang dần chiếm ưu thế hơn ghi nhớ máy móc. Trong khi tái hiện tri thức, học sinh trung học cơ sở đã biết dựa vào logic của vấn đề nên nhớ chính xác và lâu hơn.
➣ Các phẩm chất chú ý của học sinh trung học cơ sở mang nội dung mới, sức tập trung chú ý cao hơn, khối lượng chú ý nhiều hơn, khả năng duy trì chú ý cũng lâu bền hơn học sinh tiểu học.
➣ Chuyển từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng là nét đặc thù trong sự phát triển trí tuệ của học sinh trung học cơ sở. Khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa ở học sinh đã có sự phát triển, các em đã biết trừu xuất những yếu tố không bản chất để lĩnh hội khái niệm và bản chất của các vấn đề trong quá trình học tập.
➣ Khả năng suy luận, phán đoán, phê phán cũng tăng lên. Óc sáng tạo của học sinh trung học cơ sở cũng có sự tiến bộ đáng kể, tạo điều kiện cho sự phát triển các chức năng tư duy, đặc biệt là tư duy khoa học.
Trong sự phát triển về trí tuệ, giữa học sinh nam với học sinh nữ có sự khác nhau về đặc điểm tư duy, nhận thức trong học tập. Học sinh nam có xu hướng phát triển các thao tác trí tuệ không gian và logic; còn học sinh nữ phát triển các thao tác sự kiện và phân tích, các thao tác nhóm, thao tác gộp và thao tác phân loại. Vì vậy trong học tập học sinh nữ có xu hướng học các môn nhiều sự kiện, học thuộc lòng và máy móc; ngược lại, học sinh nam có xu hướng học tốt các môn trừu tượng, suy luận hơn.Trên thực tế, tư duy của học sinh trung học cơ sở còn bộc lộ một số hạn chế: một số em nắm dấu hiệu bề ngoài của khái niệm khoa học dễ hơn các dấu hiệu bản chất của nó; các em hiểu dấu hiệu bản chất của khái niệm nhưng không phải lúc nào cũng phân biệt được các dấu hiệu đó trong mọi trường hợp; hay gặp khó khăn trong khi phân tích mối liên hệ nhân quả v.v..Từ những đặc điểm trên, giáo viên cần chú ý phát triển tư duy trừu tượng cho học sinh trung học cơ sở để làm cơ sở cho việc lĩnh hội khái niệm khoa học trong học tập. Hướng dẫn các em những biện pháp rèn luyện kĩ năng suy nghĩ độc lập, có phê phán.

Sự phát triển trí tưởng tượng và ngôn ngữ của học sinh trung học cơ sở

Khả năng tưởng tượng ở học sinh trung học cơ sở khá phong phú nhưng còn bay bổng, thiếu thực tiễn. Ngôn ngữ của học sinh trong giai đoạn này phát triển mạnh, đặc biệt là về vốn từ, tính hình tượng và logic chặt chẽ trong ngôn ngữ nói và viết.Nếu như sự phát triển về ngôn ngữ là tương đối thuận lợi với học sinh trung học cơ sở nói chung, thì đối với học sinh dân tộc thiểu số, rào cản từ sự khác biệt ngôn ngữ thường dẫn đến khó khăn hoặc bất đồng trong giao tiếp của các em với thầy cô, bạn bè và những người xung quanh. Do vốn tiếng Việt hạn chế, các em có thể có tâm lí ngại ngùng, rụt rè, nhút nhát và hay tự ti khi giao tiếp với mọi người.

Đời sống tình cảm của học sinh trung học cơ sở

So với lứa tuổi tiểu học, tình cảm của học sinh trung học cơ sở có sự thay đổi rõ rệt cả về nội dung và hình thức thể hiện. Một mặt, tình cảm đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ phát triển mạnh, thể hiện ở sự coi trọng tình cảm gia đình, tình cảm bạn bè, tình cảm với thầy, cô giáo và những người xung quanh; Mặt khác, tình cảm của các em lại có cường độ khá mạnh, có sự đan xen giữa cảm xúc tích cực và tiêu cực (dễ vui, dễ buồn vô cớ…).Cùng ở lứa tuổi này nhưng đời sống tình cảm của học sinh dân tộc thiểu số lại có những nét độc đáo riêng. Hồn nhiên, giản dị, thật thà, chất phác trong quan hệ với mọi người là một đặc điểm dễ nhận thấy ở học sinh dân tộc thiểu số. Các em sống trung thực, thẳng thắn, yêu quý lao động, dễ tin và đã tin là tin tuyệt đối.Do tình cảm của các em rất chân thực, mộc mạc, yêu ghét rõ ràng nên học sinh dân tộc thiểu số luôn có niềm tin sâu sắc vào những người mình đã tin cậy, đặc biệt là người giáo viên. Khi các em đã tin yêu giáo viên của mình, các em thường quyết tâm thực hiện cho được những công việc mà thầy/cô giao, nhiều khi các em còn bắt chước tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ… của giáo viên. Vì vậy, để công tác tư vấn, hỗ trợ cho học sinh đạt hiệu quả thì người giáo viên phải luôn gần gũi, lắng nghe, tìm hiểu học sinh; cảm hoá các em bằng sự chân thành, nhiệt tình, tận tụy của mình; đồng thời cũng cố gắng gương mẫu về mọi mặt để dành cho được sự tin yêu của các em, từ đó phát huy tác dụng giáo dục của mình.

Sự phát triển tự ý thức của học sinh trung học cơ sở

Khi bước vào giai đoạn lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, do sự phát triển đột biến của cơ thể ở tuổi dậy thì, đặc biệt do sự phát triển các mối quan hệ xã hội, giao tiếp trong tập thể mà ở các em xuất hiện nhu cầu quan tâm đến nội tâm của mình, đến những phẩm chất nhân cách riêng, xuất hiện nhu cầu tự đánh giá, so sánh mình với người khác. Các em đã bước đầu có sự trưởng thành trong nhận thức về bản thân, xuất hiện “cảm giác mình đã là người lớn”. Xu hướng vươn lên làm người lớn cùng với nhu cầu tự khẳng định bản thân đặc biệt phát triển mạnh mẽ, chi phối đến toàn bộ nhận thức, thái độ và hành động của học sinh ở lứa tuổi này.Học sinh trung học cơ sở thường có xu hướng tự đánh giá mình cao hơn hiện thực, trong khi đó những người xung quanh lại đánh giá thấp hơn mức độ kì vọng của các em nên đôi khi có những xung đột trong tâm lí của học sinh. Các em rất nhạy cảm với những đánh giá, nhận xét của người khác về mình, điều này đòi hỏi cha mẹ và các nhà giáo dục phải luôn khéo léo, tế nhị trong giao tiếp – ứng xử với học sinh trung học cơ sở.

Sự phát triển của tuổi dậy thì đã tác động đến học sinh trung học cơ sở, khiến cho các em có sự quan tâm nhiều đến bạn khác giới, đồng thời xuất hiện những rung động, xúc cảm mới lạ với bạn khác giới.

Cách thể hiện tình cảm với bạn khác giới có sự khác nhau giữa học sinh nam và học sinh nữ. Trong khi các em nam thể hiện khá mạnh mẽ, đôi khi còn cố ý “gây sự” với bạn nữ để bạn chú ý đến mình thì các em nữ lại kín đáo, tế nhị hơn. Các học sinh nữ thường chú ý đến hình thức, trang phục, cách ứng xử của mình, hay che giấu tình cảm của bản thân trước bạn khác giới.Trong quá trình trưởng thành, cả học sinh nam và nữ ở lứa tuổi trung học cơ sở đều hướng đến việc xây dựng cho mình một hình mẫu lí tưởng. Các em nam thường hướng đến những con người mạnh mẽ về thể chất (cao, to, đẹp trai); quan tâm đến sự thành công trong sự nghiệp; kết quả học tập và hình ảnh của mình trong mắt bạn khác giới. Trong khi đó, các em nữ quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố tâm lí như các phẩm chất vị tha, tháo vát, đảm đang hay sự quan tâm đến người khác; thể hiện vẻ nữ tính trong mắt bạn khác giới.

Sự phát triển các phẩm chất đạo đức của học sinh trung học cơ sở

Tuổi học sinh trung học cơ sở là tuổi hình thành thế giới quan, lí tưởng, niềm tin đạo đức, những phán đoán giá trị… Nhận thức về đạo đức của học sinh trung học cơ sở đã bắt đầu được hình thành ở cấp tiểu học, nhưng đến tuổi học sinh trung học cơ sở, cùng với sự mở rộng các quan hệ xã hội và sự phát triển của tự ý thức, các phẩm chất đạo đức của các em được phát triển mạnh mẽ.Học sinh trung học cơ sở đã biết sử dụng các nguyên tắc riêng, các quan điểm, sáng kiến riêng để chỉ đạo hành vi. Hơn nữa, trong sự hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức ở học sinh trung học cơ sở thì tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức, ý chí… ở các em đã có sự tiến bộ và thay đổi nhiều so với trẻ nhỏ.Cùng với sự phát triển của tự ý thức, với nguyện vọng vươn lên làm người lớn, ý chí của học sinh trung học cơ sở có những thay đổi và mang màu sắc mới. Các phẩm chất ý chí như tính độc lập, sáng tạo, kiên cường, dũng cảm… của học sinh trung học cơ sở được phát triển mạnh hơn học sinh tiểu học. Các em thường coi việc giáo dục ý chí, tự tu dưỡng như một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của bản thân, đặc biệt với các em học sinh nam.Tuy nhiên, không phải lúc nào các em cũng hiểu đúng các phẩm chất ý chí. Nhiều em không rõ sự khác nhau giữa bướng bỉnh với kiên trì, táo bạo, liều lĩnh với can đảm, dũng cảm… Do đó học sinh trung học cơ sở có thể có những ngộ nhận, hiểu biết phiến diện, không chính xác về một số khái niệm đạo đức, những phẩm chất riêng biệt của cá nhân, vì thế các em đã phát triển những nét tiêu cực trong tính cách. Một số em đôi khi còn tỏ ra thiếu bình tĩnh, thô lỗ trong ứng xử với người lớn, với bạn bè (thường thể hiện trong hành vi, cử chỉ, trong ngôn ngữ). Bởi vậy người lớn cần giúp học sinh trung học cơ sở hiểu rõ những phẩm chất ý chí và định hướng rèn luyện, phấn đấu theo những phẩm chất tích cực để trở thành những công dân tốt trong xã hội.

Lưu ý khi tìm hiểu các đặc điểm tâm lí của học sinh trung học cơ sở: Ngoài những đặc điểm tâm lí chung ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, giáo viên cần chú ý đến những đặc điểm riêng của học sinh nữ, học sinh dân tộc thiểu số và học sinh khuyết tật.

1.3. Những khó khăn của học sinh trung học cơ sở trong cuộc sống học đường1.3.1. Khó khăn của học sinh trong hoạt động học tập, hướng nghiệpHọc tập của học sinh trung học cơ sở khác rất nhiều so với học sinh tiểu học. Nếu như ở cấp tiểu học, việc học tập có mục tiêu cơ bản là giúp các em làm quen với hoạt động học, nội dung học tập chủ yếu là những sự kiện tự nhiên, xã hội gần gũi đối với học sinh, phương pháp học chủ yếu dựa trên cơ sở hành động, trực quan thì chuyển sang cấp trung học cơ sở, nội dung học tập là các môn khoa học. Học sinh trung học cơ sở phải làm quen và hiểu các khái niệm khoa học (tự nhiên, xã hội và tư duy); Phương pháp học tập đòi hỏi phải có cơ sở tư duy trừu tượng và lí luận. Vì vậy, đối với học sinh trung học cơ sở, việc học tập thực sự là hnội oạt động nghiêm túc và nặng nề, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao và phải tìm ra phương pháp học tập phù hợp với bản thân. Đây chính là thử thách đối với đa số học sinh, đồng thời cũng là lĩnh vực xuất hiện nhiều khó khăn, thậm chí gây cản trở đến sự phát triển tâm lí hài hòa ở các em.

Khó khăn trong sự chuyển đổi và hình thành động cơ học tập đúng đắn.

Bước sang lứa tuổi trung học cơ sở, để học tập thực sự là hoạt động chủ đạo và làm nền tảng cho học tập sau này và suốt đời, học sinh cần phải chuyển hoá và hình thành động cơ học tập bên trong. Đây là thực sự là khó khăn đối với nhiều học sinh. Hệ quả là xuất hiện sự phân hoá rất rõ về động cơ, hứng thú và kết quả học tập ở học sinh. Nhiều em đã hình thành và phát triển động cơ học tập đúng đắn cho bản thân nên có hứng thú trong học tập, nhưng cũng không ít học sinh không tìm được động cơ đúng đắn dẫn đến giảm động lực học, chán học, lười học, chỉ thích các hoạt động khác. Đây chính là khởi nguồn của các hành vi tiêu cực khác. Chuyển hoá và hình thành động cơ học tập đúng đắn và mạnh mẽ cho học sinh trung học cơ sở là công việc khó khăn không chỉ của học sinh mà còn khó khăn đối với cha/ mẹ và nhà trường. Tuy nhiên đây cũng là công việc quan trọng nhất trong nhà trường trung học cơ sở.

Khó khăn trong việc định hình phương pháp học tập khoa học

Do tính chất học tập là học tri thức khoa học, đòi hỏi phải có phương pháp và phong cách học phù hợp. Tuy nhiên, chuyển từ cấp tiểu học lên cấp trung học cơ sở, học sinh chưa xác định được phương pháp cũng như chưa định hình được phong cách học tập cho riêng mình. Không ít học sinh tích cực tìm kiếm, thử nghiệm các phương pháp học nhưng vẫn chưa xác định được phương pháp học tập phù hợp với hoàn cảnh của mình, dẫn đến sự lo lắng, chán nản của nhiều học sinh, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả học tập.✦ Khó khăn trong việc chuyển từ tư duy trực quan – cụ thể sang tư duy lí luận – trừu tượngỞ lứa tuổi trung học cơ sở, học sinh chuyển từ trình độ tư duy trực quan, gắn với sự vật, hiện tượng cụ thể lên một trình độ mới – vận dụng các thao tác trên các mệnh đề ngôn ngữ có tính giả định. Đây là mức trí tuệ của người trưởng thành với sự trừu tượng hóa, khái quát hoá cao. Quá trình chuyển từ hai trình độ tư duy này thường xuất hiện hố ngăn cách, mà mọi học sinh buộc phải san lấp được. Đây là thách thức lớn của học sinh trung học cơ sở. Trên thực tế, rất nhiều học sinh gặp khó khăn trong quá trình khắc phục lỗ hổng này. Hậu quả là tạo ra cản trở trong việc học các môn đòi hỏi sự trừu tượng cao như Toán, Vật lí hay Địa lí v.v..✦ Khó khăn trong giải toả áp lực xã hội đối với thành tích học tập và sự ngộ nhận về khả năng của mìnhNếu những khó khăn nêu trên thuộc về chính bản thân hoạt động học tập của học sinh thì khó khăn này thuộc về yếu tố xã hội và tâm lí cá nhân nằm ngoài hoạt động học tập. Ở đây có hai khía cạnh:✦ Nhiều học sinh ngộ nhận về khả năng học tập của mình do thành tích học tập tốt ở cấp tiểu học, nhưng trong thực tiễn các em lại có kết quả không như kì vọng ở cấp trung học cơ sở. Điều này dẫn đến tâm lí thất vọng, mặc cảm, hoài nghi về năng lực học tập của bản thân.✦ Sự kì vọng quá mức của gia đình, nhà trường đối với kết quả học tập của học sinh có thể dẫn đến tâm lí bất an, lo lắng, căng thẳng trong học tập của học sinh trung học cơ sở. Những áp lực đó hoàn toàn không mang lại lợi ích cho sự phát triển của chính học sinh, đôi khi làm giảm hứng thú và niềm vui thực sự trong việc học của các em. Nghiêm trọng hơn, vấn đề áp lực học tập còn có thể trở thành căn nguyên của những chấn thương tâm lí trầm trọng hơn như khủng hoảng, rối nhiễu hành vi ở học sinh trung học cơ sở.✦ Khó khăn trong định hướng nghề nghiệpThái độ đối với nghề nghiệp tương lai là một biểu hiện mới trong sự phát triển tâm lí học sinh trung học cơ sở, đặc biệt là các em học sinh lớp 9. Một số em đã chú ý thu thập những thông tin và trao đổi, bàn luận với bạn thân về nghề các em quan tâm.Tuy nhiên, biểu tượng nghề nghiệp của các em còn rất mơ hồ, cảm tính. Thông tin về nghề chưa thực sự trở thành thiết yếu đối với các em. Điều này ảnh hưởng đến tâm thế của việc chọn trường và chọn các lĩnh vực học tập phù hợp với định hướng nghề. Đối với những em có hoàn cảnh khó khăn hoặc học lực không tốt, việc tư vấn chọn nghề cho các em là rất cần thiết vì khả năng học tiếp không cao, khả năng rẽ ngang sang học nghề là rất lớn. Với những học sinh như vậy rất cần được quan tâm trong công tác phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, nhất là ở những địa phương giáo dục còn nhiều khó khăn như vùng núi, vùng sâu, vùng xa.Trên đây là những khó khăn tâm lí phổ biến trong học tập của học sinh trung học cơ sở. Điều đáng lưu ý là những khó khăn trên không tồn tại và tác động riêng rẽ đến học tập của học sinh và không chỉ tác động trong phạm vi của hoạt động này. Trong thực tiễn, chúng kết hợp với nhau, là nguyên nhân của nhau và cùng tác động đến hoạt động học tập của học sinh. Đến lượt nó, các hoạt động của học sinh là căn nguyên tạo ra các khó khăn tâm lí khác, gây ra “hiệu ứng Domino” trong sự phát triển của các lứa tuổi học sinh. Vì vậy, gia đình, nhà trường, xã hội tổ chức tốt hoạt động học tập của học sinh sẽ là một liệu pháp cơ bản trong sự hỗ trợ các em phát triển.

Những khó khăn của học sinh trung học cơ sở trong hoạt động học tập – hướng nghiệp:

1. Khó khăn trong sự chuyển đổi và hình thành động cơ học tập đúng đắn2. Khó khăn trong việc định hình phương pháp học tập khoa học3. Khó khăn trong việc chuyển từ tư duy trực quan – cụ thể sang tư duy lí luận – trừu tượng4. Khó khăn trong giải toả áp lực xã hội đối với thành tích học tập và sự ngộ nhận về khả năng của mình5. Khó khăn trong định hướng nghề nghiệp1.3.2. Khó khăn của học sinh trung học cơ sở trong các mối quan hệ giao tiếpĐối với học sinh trung học cơ sở việc thiết lập và duy trì các quan hệ xã hội, giao tiếp và ứng xử là lĩnh vực quan trọng nhất; thậm chí, được ưu tiên hơn hoạt động học tập. Đồng thời lĩnh vực này cũng gặp nhiều khó khăn, thậm chí còn hơn nhiều so với học tập do tính phức tạp và do sự cải tổ lại các quan hệ của các em.

a. Khó khăn trong giao tiếp ứng xử với cha/mẹ, anh chị em

Ở tuổi học sinh trung học cơ sở có sự cải tổ rõ ràng về mục tiêu và giá trị quan hệ giữa gia đình – nhà trường và bạn bè, do sự xuất hiện và phát triển nhanh nhu cầu giao tiếp với bạn ngang hàng. Sự chuyển đổi này trong quan hệ giữa học sinh trung học cơ sở với gia đình là căn nguyên dẫn đến những xung đột, mâu thuẫn giữa học sinh với cha/ mẹ, người thân của mình.Khó khăn do mâu thuẫn nảy sinh giữa cha/mẹ với con trong các lĩnh vực hoạt động của con. Trong nhiều gia đình, cha mẹ hiểu rõ đặc điểm phát triển của con, đồng cảm với con trong học tập, tu dưỡng và quan hệ, đồng hành cùng con thì mâu thuẫn giữa cha/ mẹ với con không những không xuất hiện mà còn là tác nhân trợ giúp con tháo gỡ các khó khăn khác. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn nhiều bậc cha mẹ chưa hiểu những đặc điểm lứa tuổi của con, không tìm được tiếng nói chung với con và làm cho mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái ngày càng xa cách. Việc thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm – sinh lí của con tuổi dậy thì, thiếu hiểu biết về xu thế phát triển của con và những khó khăn con đang trải qua; thiếu đồng cảm và đồng hành cùng con sẽ xuất hiện mâu thuẫn, xung đột với con, dẫn đến tạo ra áp lực lớn đối với con; gây trạng thái tâm lí căng thẳng của con; tạo ra những hiểu lầm không nên có giữa cha mẹ với con cái. Trong nhiều trường hợp, bên cạnh sự tư vấn, hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cũng cần phải tư vấn và hỗ trợ cho các bậc cha mẹ để giúp họ có thêm những hiểu biết về sự phát triển của con, nâng cao kĩ năng làm bạn cùng con để xây dựng mối quan hệ tích cực – đồng cảm giữa cha mẹ – con cái trong gia đình.

b. Khó khăn trong giao tiếp – ứng xử với giáo viên

Giao tiếp giữa học sinh trung học cơ sở với giáo viên là thử thách thực sự đối với cả giáo viên và học sinh, đồng thời là lĩnh vực học sinh và giáo viên gặp nhiều khó khăn tâm lí. Khó khăn này biểu hiện qua tâm lí ngại tiếp xúc, tâm sự, chia sẻ với giáo viên của nhiều học sinh (trong khi đó nhu cầu được chia sẻ, tư vấn của các em rất lớn); qua các hành vi phản ứng của học sinh được coi là “gai góc, thô lỗ, ngang bướng”, gây ức chế, khó chịu cho không ít giáo viên, như “cãi lại”, “soi mói”, “bình luận”, “hành vi hỗn hào, hư, không nghe lời” v.v.. Ngược lại, trước những ngôn từ và hành vi của học sinh như vậy, nhiều giáo viên thể hiện thái độ thiếu thiện cảm, thiếu tôn trọng các em.Nguyên nhân chính về phía giáo viên có thể là do chưa thực sự thấu hiểu, thấu cảm và đồng cảm với những đặc trưng, sự biến đổi mang tính cải tổ trong các cấu trúc tâm – sinh lí của học sinh tuổi dậy thì; thấu hiểu hạn chế và khó khăn khách quan của học sinh trong hoạt động học tập, tu dưỡng và phát triển. Nhiều giáo viên chưa phân biệt rõ nguyên nhân của những ngôn từ và hành vi ứng xử của học sinh đâu là do đặc điểm có tính đặc trưng của lứa tuổi và đâu là do đặc điểm có tính cá nhân được hình thành trong cuộc sống. Về phía học sinh, nhiều em chưa được trang bị hiểu biết về đặc điểm tâm – sinh lí của chính lứa tuổi các em (tại sao mình lại có những suy nghĩ, ngôn từ và hành vi như vậy) và kĩ năng cần thiết để khắc phục những tác động tiêu cực do đặc điểm lứa tuổi gây ra. Nhiều học sinh chưa hiểu ở mức độ cần thiết tính phức tạp và khó khăn trong hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên, yêu cầu và áp lực tâm lí đến hành vi của giáo viên trong quan hệ và ứng xử với học sinh và phụ huynh. Nhiều học sinh không có tâm thế đồng cảm với thầy/cô giáo. Mặt khác, trong giao tiếp và ứng xử của học sinh tuổi trung học cơ sở với giáo viên nói riêng, người lớn nói chung, các em có xu hướng cường điệu hoá các ngôn từ, hành vi của người lớn, của cô giáo, nhưng lại coi nhẹ ngôn từ, hành vi của mình.

c. Khó khăn trong giao tiếp với bạn

Trong quan hệ với bạn cùng tuổi, học sinh trung học cơ sở có thể gặp nhiều khó khăn tâm lí với những biểu hiện như:✦ Khó khăn trong việc xác định các tiêu chí kết bạn, nhất là những năm đầu cấp trung học cơ sở. Nhiều học sinh chọn bạn theo các tiêu chí hình thức, dựa trên những biểu hiện cảm tính, không ổn định. Kết qủa là tình bạn thường xuyên bị xáo trộn, gây thất vọng, lo lắng, thậm chí bi quan về tình bạn.✦ Quan niệm phiến diện về tình bạn của học sinh có thể dẫn đến hành vi cực đoan, thậm chí tiêu cực trong quan hệ với bạn bè. Do xuất hiện và phát triển nhu cầu giao tiếp với bạn, tự ý thức, tự khẳng định bản thân… nên trong quan hệ với bạn, học sinh trung học cơ sở thường lí tưởng hoá các phẩm chất của tình bạn, dẫn đến tâm lí cực đoan ở các em. Nhiều em chưa nhận thức đúng về tình bạn chân chính, còn nhầm lẫn giữa việc quý mến, giúp đỡ bạn đúng cách với việc a dua, bao che cho bạn, dẫn đến vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức học sinh.✦ Trong giao tiếp với bạn, học sinh trung học cơ sở thường cường điệu hoá mối quan hệ bạn bè, nên xuất hiện mâu thuẫn với cha/ mẹ và thầy/ cô giáo về đối tượng kết bạn, cách giữ gìn tình bạn, thể hiện bản thân trong quan hệ với bạn… Trong nhiều trường hợp các em không đủ hiểu biết, kinh nghiệm cũng như khả năng kiểm soát cảm xúc của mình, dẫn đến các hành vi quá khích như phản ứng tiêu cực đối với người lớn khi nhận xét, phê phán về bạn và quan hệ với bạn.✦ Trong quan hệ với bạn, học sinh trung học cơ sở hình thành các nhóm bạn theo các tiêu chí riêng, dẫn đến hình thành các nhóm tự phát. Nếu sự khác biệt giữa các nhóm quá lớn, sẽ dẫn đến mất đoàn kết trong tập thể, xuất hiện các biểu hiện về sự phân biệt về nhận thức, thái độ và hành đối xử giữa các học sinh. Thậm chí nhiều em bị lôi kéo vào những nhóm bạn không lành mạnh, bị khống chế bởi các học sinh chưa ngoan. Những nhóm bạn tự phát theo chiều hướng xấu (lệch chuẩn) nếu không được định hướng đúng đắn có thể gây nên những tác hại không nhỏ đến đời sống tâm lí và sự phát triển nhân cách của học sinh.

Trong các mối quan hệ – giao tiếp, học sinh trung học cơ sở thường có những khó khăn:

➣ Khó khăn trong giao tiếp ứng xử với cha/ mẹ, anh chị em➣ Khó khăn trong giao tiếp ứng xử với giáo viên1.3.3. Khó khăn của học sinh trung học cơ sở trong phát triển bản thânVới học sinh trung học cơ sở, sự bận tâm thực sự trong thời kì này chính là câu hỏi: Tôi đang là gì trong mắt người khác, trong mắt bạn (đặc biệt bạn khác giới) và tôi sẽ là ai trong tương lai (nhiều cấp cha/ mẹ hiểu lầm khi cho rằng chuyện là đơn giản vì các em đã được người khác, gia đình chuẩn bị rồi, mà không để ý đến nội tâm của học sinh). Trong thực tế, sự phát triển bản thân của học sinh trung học cơ sở gặp khá nhiều khó khăn và luôn cần đến sự trợ giúp, định hướng của người lớn.

Khó khăn trong việc xây dựng hình ảnh bản thân

Đối với học sinh trung học cơ sở, hình ảnh bản thân là yếu tố quan trọng hơn nhiều so với tuổi tiểu học và việc xây dựng hình ảnh bản thân cũng khó khăn và phức tạp hơn. Các em quan tâm và lo lắng đến hình ảnh thân thể, đến những biến đổi nhanh chóng và thất thường của cơ thể do yếu tố dậy thì tạo ra. Lo sợ hình ảnh bản thân xấu đi trong mắt người khác, nhất là bạn bè, đôi khi chỉ vì các đặc điểm bên ngoài như mụn trên gương mặt, hình dáng (béo hoặc gầy), quá thấp hoặc quá cao, cơ thể không cân đối v.v.. cũng có thể trở thành nguyên nhân làm xuất hiện tâm lí lo âu, bi quan, căng thẳng quá mức ở các em. Những băn khoăn, lo lắng về cơ thể nếu không được tháo gỡ có thể ảnh hưởng đến việc xây dựng hình ảnh bản thân của học sinh trung học cơ sở như: quá chú trọng đến vẻ ngoài mà coi nhẹ các phẩm chất, năng lực của bản thân dẫn đến việc xây dựng hình ảnh bản thân không thống nhất với những đặc điểm tính cách và tâm lí bên trong con người các em, thậm chí lệch lạc so với các chuẩn mực xã hội.

Khó khăn trong hình thành mẫu người lí tưởng

Cuối cấp tiểu học và đầu cấp trung học cơ sở, việc hình thành mẫu người lí tưởng đã có tính khái quát hơn và rõ ràng hơn về những phẩm chất nhân cách mà các học sinh ngưỡng mộ. Quá trình xây dựng các hình tượng về những “phẩm chất nhân cách lí tưởng” của học sinh đều trải qua sự tìm kiếm, trăn trở,”cân lên đặt xuống”. Câu hỏi “mình là ai?” luôn thường trực trong suy nghĩ và hành động của học sinh cả cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Đây thực sự là quá trình rất tích cực, khó khăn và nhạy cảm đối với học sinh. Bên cạnh những em tự tìm ra cho mình những mẫu người lí tưởng có nhiều điểm tốt đáng ngưỡng mộ và học hỏi thì một bộ phận học sinh trung học cơ sở lại đề cao những mẫu người nổi tiếng theo hướng tiêu cực (phát ngôn gây sốc, hình ảnh kì dị, lối sống lập dị…) để hướng tới.

Khó khăn trong phát triển khả năng tự khẳng định bản thân

Tự khẳng định bản thân là cấu trúc tâm lí đặc trưng ở tuổi trung học cơ sở. Trong việc hình thành và phát triển khả năng tự khẳng định bản thân, học sinh trung học cơ sở gặp những khó khăn tâm lí sau:

➣ Khó khăn trong việc tự đánh giá bản thân

Do đặc điểm lứa tuổi, học sinh trung học cơ sở có xu hướng tự đánh giá bản thân cao hơn thực tế. Do đặc điểm tâm lí này nên khi gặp thất bại trong một hoạt động hay lĩnh vực nào đó có thể dẫn đến tâm lí thất vọng, nhận thức sai lệch các giá trị của bản thân học sinh. Mặt khác, trong khi tự đánh giá bản thân về lĩnh vực học tập, sự phát triển trí tuệ và các biểu hiện của năng lực có tính khách quan hơn thì tự đánh giá về các phẩm chất của học sinh trung học cơ sở lại gặp một số khó khăn, trở ngại. Ý thức về các phẩm chất của bản thân của học sinh trung học cơ sở được hình thành qua thực tiễn hoạt động, qua sự nhận xét, đánh giá của người khác, nhất là của cha/mẹ, giáo viên và bạn bè về các em. Trong các trải nghiệm thực tế đó, nhiều học sinh đã bộc lộ, thể hiện được ý thức, niềm tin và khả năng thực tế của mình, từ đó tạo ra sự tự tin và bản lĩnh. Tuy nhiên, không ít học sinh không đủ kinh nghiệm sống, không đánh giá đúng bản thân nên khi trải nghiệm sự thất bại có thể khiến các em có tâm lí bi quan, tự ti về khả năng của mình. Nếu không được giáo viên kịp thời trợ giúp, giải toả sự lo âu, sẽ dẫn đến trạng thái suy sụp, mất niềm tin vào bản thân trong cuộc sống ở nhiều học sinh.

➣ Hạn chế về khả năng tự khẳng định bản thân

Khi tự ý thức về bản thân, đôi khi học sinh trung học cơ sở còn chưa phân biệt được sự khác nhau giữa tự khẳng định bản thân với tính cố chấp, bướng bỉnh. Do nhu cầu tự khẳng định cao, kết hợp với việc mở rộng các mối quan hệ giao tiếp nên trong ứng xử với người khác, nhiều học sinh đã đồng nhất tự khẳng định với tâm lí “tự mình, do mình”: tự mình làm mọi việc, không muốn và không cần sự hỗ trợ của người lớn; không muốn người lớn can thiệp vào mọi hoạt động và sinh hoạt của mình; có các hành vi phản ứng lại người lớn; tính phê phán, chống đối, làm khác đối với các tác động của người lớn v.v.. Trong khi đó, trên thực tế học sinh chưa đủ kinh nghiệm và trải nghiệm để nhận ra hậu quả của những suy nghĩ và hành động nhất thời của mình. Điều này dẫn tới hậu quả là nhiều em gặp khó khăn trong hoạt động học tập, tu dưỡng, các mối quan hệ và đời sống do không sẵn sàng tiếp nhận sự quan tâm, trợ giúp của người lớn.

➣ Khó khăn trong việc kiểm soát cảm xúc và các hành vi không mong đợi

So với các lứa tuổi khác trong suốt cuộc đời cá nhân, tuổi học sinh trung học cơ sở là giai đoạn xuất hiện nhiều nhất các cảm xúc với cường độ mạnh và nhiều khi có tính chất cực đoan. Do ảnh hưởng của quá trình hưng phấn của hệ thần kinh diễn ra mạnh mẽ hơn so với quá trình ức chế, học sinh thường gặp khó khăn trong việc kiểm soát cảm xúc và hành vi của bản thân. Cũng trong giai đoạn lứa tuổi này, những hành vi không mong đợi đợi từ những phát ngôn thiếu suy nghĩ, đến các hành vi phá phách, bạo lực, chống đối lại cha/ mẹ, thầy cô giáo, bỏ tiết, bỏ học v.v.. diễn ra thường xuyên hơn, gây nên những trở ngại nhất định cho công tác giáo dục và dạy học trong nhà trường.Trong thực tiễn, giáo viên cần nhận diện sự khác nhau giữa các hành vi không mong đợi của học sinh: Thứ nhất, hành vi cố ý do động cơ không lành mạnh (làm hại người khác, trả thù, thói quen kiểm soát và bắt người khác phục tùng). Thứ hai, hành vi không mong đợi xuất phát từ khả năng kiểm soát kém. Những hành vi này có nguyên nhân từ sự biến động mạnh của các yếu tố sinh lí thần kinh (hiện tượng dậy thì, sự linh hoạt, hưng phấn mạnh của hệ thần kinh, sự thay đổi các hoocmon…); Thứ ba, hành vi không mong đợi diễn ra do xu hướng vươn lên làm người lớn và sự phát triển mạnh mẽ của nhu cầu tự khẳng định, trong khi khả năng kiểm soát cảm xúc còn hạn chế… Nếu được trợ giúp, tư vấn kịp thời, phù hợp sẽ giúp học sinh trung học cơ sở hiểu về sự phát triển của mình hơn, có khả năng kiểm soát cảm xúc và hành vi hiệu quả hơn.Ngoài ra, còn có một số em học sinh – do ảnh hưởng bởi đặc điểm tâm lí tuổi dậy thì, kết hợp với những yếu tố môi trường xã hội tiêu cực (sự phát triển của Internet, các trào lưu văn hóa của giới trẻ thiếu chuẩn mực…) có thể dẫn đến các hành vi giới tính không phù hợp như quan hệ tình dục sớm, thực hiện hành vi lệch lạc giới tính (thủ dâm quá thường xuyên), hoặc có những trò chơi tính dục khác v.v..

Khó khăn của học sinh trung học cơ sở trong phát triển bản thân

✦ Khó khăn trong việc xây dựng hình ảnh bản thân✦ Khó khăn trong hình thành mẫu người lí tưởng✦ Khó khăn trong phát triển khả năng tự khẳng định bản thân1.3.4. Các yếu tố tác động đến tâm lí học sinh trung học cơ sở trong bối cảnh xã hội mới

a. Tác động của Internet và mạng xã hội đến tâm lí học sinh trung học cơ sở

✦ Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển với nhiều thành tựu vượt cấp, chúng ta không thể phủ nhận những tác động tích cực mà Internet và mạng xã hội mang đến cho con người. Với trẻ em nói chung và học sinh trung học cơ sở nói riêng, Internet, mạng xã hội cũng có những vai trò to lớn và tác động tích cực đến sự phát triển tâm lí của các em:Tạo ra tài nguyên vô cùng phong phú và vô tận thông tin; tạo ra hệ thống dữ liệu, mà dù thông minh, năng lực phi thường đến đâu cũng không thể khai thác hết được. Nói một cách hình ảnh, học sinh có thể “tha hồ” vùng vẫy trong thế giới thông tin – nguồn thức ăn vô tận cho hoạt động nhận thức và trí tuệ;Giúp cho nhận thức của nhân loại luôn được “làm mới” một cách nhanh chóng. Nhờ mạng xã hội, những phát minh, sáng chế và các thông tin hữu ích nhanh chóng được lan truyền, phổ biến. Điều đó góp phần gia tăng sự nhận thức, hiểu biết về khoa học và làm cho cuộc sống của con người nói chung, của học sinh nói riêng ngày càng trở nên văn minh hơn, khoa học học.Là công cụ học tập, công cụ sáng tạo và góp phần giúp học sinh phát triển hơn các tiềm năng, năng lực của bản thân mình. Nhờ có sự phát triển của khoa học công nghệ, giới trẻ và học sinh trung học cơ sở nói riêng được tiếp thu thành tựu của nhân loại, phục vụ cho việc thể hiện trí thông minh, sức sáng tạo của học sinh. Phát triển phương thức học phi truyền thống hỗ trợ phương thức học truyền thống và dần dần trở thành phương thức học cơ bản trong thời đại số và kết nối mạng.Giúp phát triển năng lực hợp tác, tương tác trên quy mô rộng lớn hơn; xoá nhoà khoảng cách về không gian, khắc phục bất bình đẳng về tầng lớp và hoàn cảnh, tạo ra sự đoàn kết mang tính quốc gia, quốc tế.✦ Tuy nhiên, do tác động của việc sử dụng Internet, mặt trái mạng xã hội, học sinh trung học cơ sở cũng đứng trước các nguy cơ chịu ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực đến đặc điểm tâm lí lứa tuổi như:Loạn thông tin, dẫn đến biến học sinh thành “thùng thông tin” nếu không được định hướng cách thức xử lí, sàng lọc và khai thác.Nguy cơ nhiễm độc từ các thông tin xấu, tiêu cực, phi giáo dục, thiếu tính nhân vănNguy cơ trở thành tội đồ của mạng do thiếu ý thức, không làm chủ hành vi của mình; theo thói quen a dua mạng; dẫn đến lệch lạc về nhận thức, hành vi; xuất hiện bạo lực, khủng bố mạng (ngôn ngữ, hành vi), gây hậu quả nghiêm trọng đến danh dự, phẩm giá, thậm chí tính mạng của người khác.Trở thành nạn nhân của mạng xã hội do bị khống chế, đe doạ, lừa đảo, lợi dụng, lạm dụng và ép buộc bởi các đối tượng xấu.Nguy cơ nghiện mạng xã hội dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng đến học tập quan hệ xã hội (với cha mẹ, thầy cô, bạn bè); sống ảo, gắn với nhu cầu tương tác cao với các mạng. Hậu quả trở thành con người thiếu cảm xúc nhân bản, khuyết thiếu về quan hệ xã hội và lệch lạc, ảo tưởng về nhân cách do quá lệ thuộc và bị chi phối bởi thế giới ảo.Những vấn đề đặt ra đối với tâm lí học sinh trung học cơ sở khi thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018Từ năm học 2020 chương trình giáo dục phổ thông 2018 bắt đầu triển khai với học sinh lớp 1 trong cả nước. Theo lộ trình trong những năm học tiếp theo học sinh ở các cấp sẽ thực hiện chương trình này với những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cũng như sự điều chỉnh về nội dung, phương pháp, hình thức dạy học và kiểm tra đánh giá. Định hướng thay đổi một cách đồng bộ, toàn diện từ nội dung, phương pháp đến hình thức kiểm tra, đánh giá trong hoạt động giáo dục và dạy học sẽ đặt ra hệ thống yêu cầu mới, qua đó, giúp hình thành ở học sinh trung học cơ sở những năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Khi thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, tính tích cực và vai trò của người học được đề cao nên học sinh có cơ hội được:Phát triển toàn diện các năng lực và phẩm chất cần có của người công dân trong xã hội hiện đại.Giảm tải kiến thức, chú trọng thực hành – trải nghiệm là một sự chuyển biến rõ rệt, đem lại nhiều lợi ích hơn cho người học. Các em học sinh sẽ được tiếp cận với một chương trình gắn liền với các năng lực và phẩm chất cần có, nhưng được thực hiện bằng các phương pháp sinh động, gợi mở và với nội dung gắn với đời sống học đường hơn.Được phát triển các năng lực hành động của bản thân (bao gồm năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội và năng lực cá thể) qua việc thực hiện các chuyên đề học tập liên môn, trong đó tập trung vào các năng lực cốt lõi.➣ Được phát huy đến mức tối đa sự tự giác, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập. Học sinh vừa được học tập các môn học/chủ đề cơ bản, đồng thời còn có sự phân hóa sâu khi thực hiện những chuyên đề học tập, dự án.Tuy nhiên, để Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đạt được hiệu quả, cũng đặt ra một số yêu cầu nhất định đối với học sinh trung học cơ sở:➣ Để thích ứng với những yêu cầu đặt ra trong chương trình giáo dục phổ thông mới đòi hỏi khả năng thích ứng, linh hoạt và sáng tạo ở nhiều học sinh.➣ Mặc dù kiến thức hàn lâm được giảm tải, nhưng sẽ đòi hỏi học sinh phải rèn luyện và trang bị cho mình nhiều kĩ năng xã hội hơn; học tập đào sâu hơn và cũng đồng thời đáp ứng những mục tiêu phát triển các phẩm chất mà chương trình đặt ra. Điều này có thể là một thử thách với những học sinh ở vùng sâu, vùng xa, học sinh nông thôn, học sinh khuyết tật, nơi có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.➣ Học sinh phải hình thành phương pháp học tập vừa khoa học, vừa phù hợp với tính chất môn học và nhất là phù hợp với những đặc điểm riêng về phong cách, phương pháp học tập, tư duy của bản thân.➣ Tính tích cực, tự giác của học sinh được phát huy đến mức tối đa, đòi hỏi học sinh phải có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu, phát triển kĩ năng hợp tác và giải quyết vấn đề. Với những học sinh đầu cấp trung học cơ sở thì đây cũng có thể là một khó khăn cần đến sự tư vấn, hỗ trợ của giáo viên.➣ Chương trình mới chú trọng phát huy tinh thần hợp tác, kĩ năng làm việc nhóm nhằm khuyến khích học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập có tính chất tích hợp và phân hóa một cách hiệu quả nhất. Đây vừa là cơ hội để học sinh phát triển bản thân, nhưng cũng là thách thức đối với nhiều học sinh trung học cơ sở hiện nay.

b. Tác động của môi trường kinh tế – văn hóa hội nhập quốc tế

Việt nam là một trong những quốc gia có chủ trương về hội nhập sâu và rộng. Hội nhập quốc tế được thể hiện trong những lĩnh vực sau: Hội nhập về kinh tế; hội nhập về thể chế quản lí hành chính; các sinh hoạt văn hoá; chia sẻ thông tin và cơ hội; hợp tác trên phạm vi khu vực, toàn cầu nhằm giải quyết những vấn đề và đối phó với những nguy cơ của nhân loại. Hội nhập quốc tế tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lí học sinh nói chung, học sinh trung học cơ sở nói riêng.

c. Những tác động tích cực:

Hội nhập quốc tế có tác động tích cực đến tâm lí học sinh trên các phương diện sau:✦ Phát triển các năng lực công nghiệp như trí tuệ công nghiệp, tư duy công nghiệp; các phẩm chất tâm lí cá nhân phù hợp với sản xuất công nghiệp và công nghệ.✦ Tiếp cận và tiếp thu các thành tựu văn minh, văn học, nghệ thuật và khoa học của nhân loại và của các dân tộc khác trên thế giới thông qua các loại hình trường lớp có yếu tố quốc tế và các chương trình hiện đại✦ Hình thành và phát triển các năng lực hợp tác trong công việc và trong các lĩnh vực khác của đời sống✦ Phát triển các phong cách, tác phong công nghiệp, công nghệ trong học tập và ứng xử xã hội.✦ Chia sẻ những giá trị văn hoá của dân tộc thông qua các hoạt động giao lưu

d. Những tác động tiêu cực:

✦ Cùng với việc tiếp thu những giá trị tốt đẹp, những thành tựu khoa học, công nghệ tiến tiến, những năng lực công nghệ hiện đại của nhân loại, việc hội nhập quốc tế cũng có mặt trái tác động đến sự phát triển tâm lí học sinh như lối sống thực dụng, máy móc, duy lí; thậm chí cực đoan xa rời những giá trị văn hoá cốt lõi của dân tộc.✦ Với những trào lưu văn hóa mới của giới trẻ, trong số đó có những xu hướng không phù hợp với chuẩn mực, giá trị của dân tộc lại được thanh thiếu niên nói chung, học sinh trung học cơ sở nói riêng đón nhận và hưởng ứng.✦ Sự tác động của hội nhập quốc tế có thể xóa nhà ranh giới giữa những giá trị toàn cầu và giá trị dân tộc. Hệ giá trị của học sinh trung học cơ sở đang trên con đường phát triển và hoàn thiện, các em rất dễ “du nhập” những hệ giá trị mới mà không có bất cứ sự đề phòng, chắt lọc nào.Tóm lại: Những tác động của bối cảnh xã hội mới đến đặc điểm tâm lí của học sinh trung học cơ sở vừa mang tính tích cực, lại vừa có những ảnh hưởng tiêu cực. Ở một giai đoạn mà học sinh luôn nhạy cảm với cái mới lạ, chưa có nhiều kinh nghiệm xã hội để nhận biết đâu là những giá trị đáng quý, đáng trân trọng và có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển nhân cách của mình, thì sự tư vấn, hỗ trợ của các giáo viên trong nhà trường sẽ như là một cách phòng ngừa hiệu quả nhất trên bước đường trưởng thành của học sinh trung học cơ sở.1.4. Nhu cầu tư vấn, hỗ trợ của học sinh trung học cơ sở trong hoạt động giáo dục và dạy họcHọc sinh trung học cơ sở là giai đoạn có những đặc trưng riêng về sự phát triển tâm – sinh lí và sự thay đổi vị trí, vai trò của các em trong nhà trường, gia đình, xã hội. Trước những tác động của bối cảnh xã hội hiện đại, cùng với những yêu cầu đặt ra của Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã đặt ra cho các em không ít những khó khăn ở các lĩnh vực. Nhu cầu tư vấn, hỗ trợ của học sinh trung học cơ sở thường tập trung ở những khía cạnh sau đây:1.4.1. Về nội dung tư vấn, hỗ trợĐối với lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, có hai hoạt động cơ bản có ảnh hưởng và quyết định đến sự phát triển tâm lí của lứa tuổi này là hoạt động học tập và hoạt động giao tiếp. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về những khó khăn tâm lí của học sinh trung học cơ sở, các nhà nghiên cứu nhận thấy nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lí của học sinh cũng tập trung chủ yếu ở hai lĩnh vực này.

a. Tư vấn, hỗ trợ về học tập

Trong hoạt động học tập, học sinh trung học cơ sở có nhu cầu được tư vấn về những nội dung như: Sự kì vọng quá mức của gia đình đối với việc học của các em; động cơ học tập chưa rõ ràng, chưa tìm ra phương pháp học tập hiệu quả; hổng kiến thức từ những phần đã học; hứng thú học tập chênh lệch giữa các môn… Thêm vào đó, yêu cầu với việc học tập ngày càng cao, nhiệm vụ học tập khó khăn hơn, sự kì vọng của cha mẹ quá lớn, và tâm lí không muốn học tập thua kém bạn bè cũng là yếu tố tác động đến nhận thức, cảm xúc và hành vi của học sinh trong lớp học. Những áp lực này đã tạo nên nhiều khó khăn tâm lí cho học sinh và các em rất cần tới sự trợ giúp, tư vấn. Có không ít học sinh do áp lực của việc học, căng thẳng trong mùa thi mà sinh ra đau bụng, buồn nôn, chóng mặt, mất ngủ, kém ăn…

b. Tư vấn, hỗ trợ về giao tiếp


✦ Giao tiếp với giáo viênNhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lí thường thấy của học sinh trung học cơ sở khi giao tiếp với giáo viên là những vấn đề như: không dám bộc lộ những quan điểm của mình với giáo viên, hỏi và trả lời không tự nhiên, tâm lí sợ sai, khó khăn trong việc bày tỏ tình cảm và suy nghĩ của mình. Khi tiếp xúc với giáo viên ngoài giờ học, các em e ngại, nhút nhát, không tự tin, không biết cách lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ phù hợp. Các em cần sự trợ giúp tâm lí để biết cách cư xử đúng mực, tạo được thiện cảm tốt đối với giáo viên và thoát khỏi tâm lí sợ bị giáo viên đánh giá mình.

✦ Giao tiếp với bạn bè

➣ Giao tiếp với bạn bè nói chungViệc thay đổi môi trường học tập, giao tiếp cùng với sự phát triển tâm lí lứa tuổi học sinh trung học cơ sở đã nảy sinh nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lí học đường của các em trong hoạt động giao tiếp với bạn bè với các vấn đề thường thấy ở học sinh trung học cơ sở như: sợ làm bạn giận, không thích tính tình của bạn, bất bình trước việc tập thể lớp có hiện tượng chia bè phái, lo lắng trước hiện tượng mâu thuẫn, xung đột trong tình bạn, sợ bị nhóm bạn tẩy chay, không dám hoặc khó từ chối những yêu cầu vô lí và có thể có hại đối với bản thân…➣ Giao tiếp với bạn khác giớiTrong giao tiếp với bạn khác giới của học sinh trung học cơ sở đã nảy sinh nhu cầu được tư vấn, hỗ trợ tâm lí với các nội dung sau: ứng phó với dư luận tập thể về hiện tượng gán ghép, khó ứng xử với bạn khác giới khi phát hiện mình có rung cảm với bạn, không biết cách từ chối tình cảm với bạn mình, ngộ nhận xúc cảm với tình yêu, yêu đơn phương, khó xử trước những cử chỉ hoặc lời nói của bạn khác giới với mình một cách thân mật quá mức hoặc lộ liễu trước đông người, hoặc thường dè dặt, giữ kẽ, ngại ngùng khi tiếp xúc với bạn khác giới. Một số học sinh có nhu cầu được tư vấn về vấn đề nhận diện tình bạn và tình yêu, gặp trở ngại trong những lần hẹn hò, biểu lộ tình cảm với bạn khác giới… Các em mất cân bằng trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa lí trí nhận thức được nhiệm vụ chính là học tập với tình cảm, tình yêu sẽ ảnh hưởng đến học hành v.v..

✦ Giao tiếp với các thành viên trong gia đình

Khi giao tiếp với các thành viên trong gia đình nói chung và với người lớn (cha mẹ, ông bà…) nói riêng, học sinh trung học cơ sở có nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lí ở một số nội dung như: học tập không tốt có thể bị cha mẹ mắng, thấy bất bình đẳng ở cách cư xử của cha mẹ đối với anh chị em trong gia đình, không thấy sự đồng cảm và chia sẻ của cha mẹ với mình, hoang mang trước những mâu thuẫn giữa cá thành viên trong gia đình, sức ép về việc học tập từ phía cha mẹ như bắt phải học giỏi… nhiều khi làm cho các em bị căng thẳng, lo âu, thất vọng về bản thân. Một số em còn buồn bã vì bố mẹ, anh chị em trong gia đình không hiểu mình, không có sự đồng cảm, chia sẻ lẫn nhau dẫn đến mâu thuẫn, xung khắc.

✦ Giao tiếp với cộng đồng

Biểu hiện về nội dung nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lí trong giao tiếp với cộng đồng của học sinh trung học cơ sở là việc các em xác định đúng vị trí để ứng xử, xưng hô với những người xung quanh; sử dụng các phương tiện giao tiếp (ngôn ngữ và phi ngôn ngữ), thể hiện thái độ phù hợp với suy nghĩ của bản thân khi giao tiếp. Các em cũng gặp khó khăn trong việc thể hiện sự quan tâm, mong muốn giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn, thể hiện hành vi đúng mực và có văn hóa khi tham gia các dịch vụ công cộng… Những khó khăn đó có thể ảnh hưởng đến quá trình học tập và các mối quan hệ của học sinh ở trường và cần có sự trợ giúp của các thầy, cô giáo cũng như các chuyên gia tâm lí trong trường học.Ngoài ra, do đặc điểm của tuổi dậy thì, học sinh trung học cơ sở còn có nhu cầu được tư vấn về vấn đề giới tính và sức khỏe sinh sản. Đồng thời, những nội dung liên quan đến sự phát triển bản thân như khả năng tự đánh giá, tự khẳng định bản thân, xác định mẫu người lí tưởng… cũng là những nội dung các em mong muốn được tư vấn, hỗ trợ trong quá trình học tập và tham gia các hoạt động ở nhà trường.1.4.2. Về hình thức tư vấn, hỗ trợ

Nguyên nhân gây nên khó khăn tâm lí của học sinh trung học cơ sở bao gồm cả nguyên nhân chủ quan (ví dụ như đặc điểm tính cách, kiểu khí chất, kĩ năng sống…) và nguyên nhân khách quan (sự phát triển về mặt thể chất và sinh lí, các yếu tố tác động từ môi trường xã hội…). Trong đó tác động nhiều nhất là từ phía chủ quan, do tính cách của bản thân và do kinh nghiệm của học sinh trung học cơ sở còn hạn chế. Vì vậy, phần lớn học sinh đều có mong muốn nhận được sự trợ giúp tâm lí từ phía các thầy, cô giáo và nhà trường mỗi khi gặp khó khăn hay tình huống khó xử. Hình thức tư vấn, hỗ trợ mà học sinh trung học cơ sở kỳ vọng nhiều nhất từ phía giáo viên là qua thư điện tử, internet, điện thoại… Thực tế qua số liệu của các công trình nghiên cứu cho thấy, đa số học sinh trung học cơ sở chưa được tiếp cận với các hoạt động trợ giúp tâm lí học đường. Chiếm một tỷ lệ nhỏ học sinh “đã từng nghe nói đến” hoạt động tư vấn tâm lí là từ kênh truyền thông đại chúng (đài, báo, ti vi…), tiếp sau đó là qua mạng Internet. Điều đó cho thấy các em có nhu cầu cao về việc tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về các vấn đề tâm lí; lựa chọn nhiều nhất của các em ở các buổi nói chuyện này là chủ đề hướng nghiệp; tình bạn – tình yêu, giới tính, gia đình; khám phá bản thân. Những mong muốn này là hoàn toàn phù hợp với sự phát triển tâm lí, nhân cách của các em.

Nội dung chính thức chia sẻ bởi giáo viên cốt cán trong mô đun 5

MÔ ĐUN 5 TƯ VẤN VÀ HỖ TRỢ HỌC SINH TRONG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC

Đăng kí kênh youTube để ủng hộ nhóm tác giả:

Mọi ý kiến về bài viết cũng như bản quyền vui lòng inbox về địa chỉ mail hoặc để lại bình luận phía bên dưới. hoặc Fanpage: facebook.com/blogtailieu